Bồ Đào Nha và công trình sáng chế chữ quốc ngữ
Phải chăng cần viết lại lịch sử ?
Roland
Jacques ***
Bản dịch Việt
ngữ :
Nguyễn Đăng
Trúc
ISBN 2-912554-26-8
Nxb: Định
Hướng Tùng Thư, năm 2004
Hội Văn Hóa
TRUNG TÂM NGUYỄN-TRƯỜNG- Web site http://ttntt.free.fr
13 g rue de
l’ILL, 67116 Reichstett, France, E-mail dinhhuong@aol.com
LTS ; Bản văn Bồ Đào Nha và công trình sáng chế
chữ quốc ngữ Phải chăng cần viết lại lịch sử? của
Roland Jacques đã được Nguyễn Đăng
Trúc chuyển qua Việt ngữ và dịch đăng trong
Tập San Định Hướng No. 17 / Fall 1998, Pp 18-62.
Roland Jacques vận dụng vốn ngôn
ngữ (ông nói thành thạo trên 10 thứ tiếng), khả năng chuyên môn về văn chương, thần
học và luật học, và nhất là phương pháp và tinh thần khách quan của sử học để đọc
lại một giai đoạn lịch sử quan trọng của Việt-Nam, giai đoạn đầu tiên người Tây
Phương tiếp cận với người Việt-Nam, giai đoạn những năm tháng đầu thế kỷ 17.
Trong mấy chục năm đầu thế kỷ 17 ấy, hai sự kiện quan trọng liên quan đến cuộc
sống tôn giáo và văn hóa Viêt-nam :
·
Kitô giáo được các nhà truyền giáo tiên khởi thuộc Qui Chế Bảo Trợ (Padroado) Bồ Đào Nha đưa
vào Việt Nam
·
Chữ viết gọi
là quốc ngữ được các vi truyền giáo Bồ Đào Nha ấy sáng chế
Người Việt Nam bình thường và
ngay những nhà nghiên cứu sử học hẳn sẽ thấy có gì bất ổn khi nghe Roland
Jacques liên kết người Bồ Đào Nha với hai sự kiện lịch sử nầy.
Không phải là những người Pháp là những người đầu
tiên đưa Kitô giáo vào Việt Nam và sáng chế ra chữ quốc ngữ sao ?
Làm sao có thể nêu lên một điều
mà trong tâm tưởng cũng như trong sách vỡ
người ta đã xem là hiển nhiên như thế được ?
Nhưng Roland Jacques, một nhà nghiên cứu gốc
người Pháp, trung kiên với sự thật khách quan của lịch sử, mong ước được nói với
mỗi ngưởi chúng ta : trong hai sự kiện nêu trên : «những sự việc
thường được xem là hiển nhiên mà thực sự
lại sai».
Năm 2004, Đinh Hướng Tùng Thư đã đưa bài nghiên cứu nầy vào
chương đầu của một cuốn sách và cho xuất bản bằng song ngữ pháp-việt trong toàn
tập hai bộ ; sách có tưa đề : « Les missionnaires portugais et les débuts
de l’Église catholique au Viêt-nam » (Các nhà truyền giáo Bồ Đào Nha và
thời kỳ đầu của Giáo hội Công giáo Việt Nam)
______________________________
Năm 1651, hai tác phẩm rất quan trọng về lịch sử tiếng Việt
Nam đã được xuất bản tại Roma: cuốn Từ điển Việt-Bồ-La và cuốn Phép
Giảng Tám Ngày Cho Kẻ Muốn Chịu Phép Rửa Tội Mà Vào Đạo Thánh Đức Chúa Trời;
1 điều mới mẽ đặc biệt là việc sử dụng một hệ thống
chữ viết có tính cách cách mạng lấy từ vần latinh, vừa mới được sáng chế trước đó;
hệ thống chữ viết ấy, ngày nay, thường được gọi chung là chữ quốc ngữ. Trong gần hai thế kỷ, mải cho đến lúc xuất hiện cuốn
Từ điển La-Việt của Taberd năm 1838, 2 hai tác phẩm
ấy vẫn là những công trình - duy nhất áp dụng hệ thống chữ viết nầy được in.
Hai cuốn sách ấy ghi rõ trên bìa tên của tác giả Alexandre de Rhodes, thuộc Hội
dòng Giêsu, nhà truyền giáo Tông tòa.
Thành ngữ “quốc ngữ” theo nguyên tự hán-việt là “tiếng
nói của người Việt”. Thực ra, đây là một lối viết tiếng Việt khác với chữ hán
được sử dụng chính thức trong nhiều thế kỷ. Việc áp dụng một lối viết để đọc tiếng
Việt khởi thủy là chữ nôm; hệ thống chữ viết nầy lấy từ cách viết chữ hán mà chúng
ta sẽ có dịp nói đến sau nầy. Nhưng từ khoảng đầu thế kỷ 20, thành ngữ “quốc
ngữ”, về kỷ thuật nhằm nói đến lối viết tiếng Việt theo mẫu tự latinh; và
ngày nay mọi người đều hiểu như thế. Chữ “quốc ngữ” ấy xây dựng trên căn
bản vần latinh được bổ túc bởi hai kiểu-mẫu âm tiêu nhằm thích ứng với tính đa
dạng của các âm tố nơi tiếng Việt, và để ghi chép rõ nét các âm. Đây là lối viết
ngày nay được mọi người Việt sử dụng.
Đến khi chữ quốc ngữ đã bắt đầu được sử dụng chính thức tại
Việt Nam vào đầu thế kỷ XX, 3 người ta cố
truy tìm lịch sử của nó, bấy giờ tên tuổi Alexandre de Rhodes đã sớm được công
nhận như là người khai sinh ra việc chuyển vần latinh vào tiếng Việt Nam. Rồi từ
đó ông được nâng lên tận mây xanh như một ngôi sao đứng một mình, soi sáng cho đêm
tối của quá khứ xa xưa, của những thời kỳ truyền giáo tiên khởi, trước khi các
vị truyền giáo Paris đến, trong đó Taberd và các đấng kế vị là những đại diện có
tên tuổi. Chính quyền thực dân và Giáo hội đều đã ca ngợi thiên tài truyền giáo
và ngữ học có một không hai của vị tu sĩ dòng Tên, tán dương những lợi ích đem
lại cho Việt Nam trong thời đại mới. Một tác giả4 từng viết : “Cha Alexandre de
Rhodes đưa Kitô giáo và nước Pháp vào Việt Nam”. Nhưng có những sự việc thường
được xem là hiển nhiên mà thực sự lại sai...
Vậy Alexandre de Rhodes là ai? Ông sinh tại Avignon trong
các lãnh địa của Giáo hoàng năm 1593, và vào dòng Tên tại Roma năm 1612. Lên
thuyền từ Lisbonne đi Đông dương năm 1619, đến Macao năm 1623, và được sai đến
truyền giáo tại Đàng Trong năm 1624. Hai năm sau, từ Đàng Trong, cùng với bề trên
mình là linh mục người Bồ đào nha Pêro Marques, ông được cử đến thành lập vùng
truyền giáo Đàng Ngoài; ông cư ngụ tại đấy từ năm 1627 cho đến lúc bị trục xuất
vào năm 1630. Sau mười năm sống ở Macao (1630-1640), ông lại được gửi đến Đàng
Trong và điều hành vùng truyền giáo nầy; ông ba đợt cư ngụ tại đây từ năm 1640 đến
năm 1645 là năm ông vĩnh viển bị trục xuất. Cuối năm 1645 ông lên tàu đi Âu châu:
ông đi chuyến ấy để thảo luận về tương lai công cuộc truyền giáo Việt Nam, tại
Rôma (1639-1652), rồi tại Pháp (1652-1654). Sau đó, ông được sát nhập vào đoàn
truyền giáo dòng Tên của Ba-tư, cư ngụ tại Ispahan cho đến lúc qua đời vào năm
1660.
Về việc cho rằng Rhodes là người khai sinh ra các công
trình tính có cách quyết định về tiếng quốc ngữ, các nhà nghiên cứu khoa học đã
từng thấy hơi vướng vấp trước một mâu thuẫn: Rhodes, sinh ở Avignon, được xem là
nói tiếng Pháp như tiếng mẹ đẻ; thế nhưng hệ thống chuyển tiếng việt bằng chữ
latinh lại không mang dấu vết tiếng nói của Boileau... . Tuy vậy đã không có ai
cố tìm hiểu để bác khước vị thế khai sáng của Alexandre de Rhodes từng được xem
là cha đẻ của chữ viết nầy; người ta lại cố tìm cách tránh né khó khăn trên bằng
cách đưa ra giả thiết về gốc gác có tính cách đa quốc của vị tu sĩ người
Avignon ấy, 5 đồng thời thổi phòng khả năng ngữ học
vô song về nhiều thứ tiếng khác nhau của ông. Một số thấy được vấn đề và lưu ý đến
những thực tế lịch sử nên đã nói đến một công trình tập thể do các nhà truyền
giáo “Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Ý và Pháp”, 6
mà dấu vết của họ còn lưu lại; nhưng vai trò nổi bật nhất luôn được dành
cho Rhodes.
Bản liệt kê ấy lại làm ta phải ngạc nhiên. Nếu thật sự có
sự hiện diện của các vị truyền giáo Bồ đào nha và Ý trong những năm sáng chế ra
chữ quốc ngữ, và cả của Alexandre de Rhodes, thần dân của các lãnh địa thuộc Giáo
hoàng, vì nguồn gốc văn hóa mà có thể gọi là có dấu tích của người Pháp, thì người
Tây ban nha lại hoàn toàn không liên quan gì vào công cuộc ấy, trừ phi phải nại
đến nguồn gốc di cư từ tổ tiên của chính Rhodes... Những nhà truyền giáo đầu tiên
người Pháp đó là các tu sĩ dòng Tên Joseph FranÒois Tissanier và Pierre Jacques
Albier, đến Việt Nam vào năm 1658; còn các tu sĩ dòng Đaminh gốc Tây ban nha đến
vào năm 1676. 7
Và Haudricourt, nhà chuyên môn về Việt học, trong một bài
nghiên cứu hết sức thấu đáo, từng cho rằng trong chữ quốc ngữ có những dấu vết
của nhiều hệ thống phát âm của Âu Châu, kể cả các thổ ngữ miền Basque. 8
Hẳn nhiên, chủ trương chống thực dân của những năm sau
khi Việt Nam giành lại độc lập không xem đây là một công trạng, mà còn mạ lị cả
con người được đánh giá là đã từng đem đến mọi đều xấu xa. Việc áp dụng vần
latinh làm chữ viết đã được xem như một hành động chính trị thù nghịch, một mưu
đồ hủy diệt văn hóa nhằm chia rẽ cộng đồng quốc gia và áp đặt một sự thống trị
của ngoại quốc; ngoài ra, Rhodes không phải đã từng được hiểu là đi Âu Châu kêu
gọi quân đội Pháp đến hay sao?
Chúng tôi sẽ đề cập đến lối phê phán nầy ở phần sau và không
tranh cãi theo tiền kiến ý thức hệ, nhưng dựa vào những nguồn tài liệu đang có.
Sự thực thì Alexandre de Rhodes đôi khi đã dùng một lối nói bóng bảy trong các
tài liệu ông đã xuất bản: “Tôi đã nghĩ rằng Pháp quốc vốn là vương quốc sùng đạo
nhất trên thế giới, hẵn có thể cung ứng cho tôi nhiều chiến sĩ lên đường chinh
phục toàn Đông phương, để đưa về Chúa Giêsu Kitô, và đặc biệt là tôi mong xứ ấy
giúp tôi có được những giám mục, là những bậc làm cha, làm thầy của chúng tôi
trong các giáo hội ấy... ”. 9 Thế mà, có
những bậc học giả cấp đại học từng giải thích các hình ảnh tỷ dụ trong ngôn ngữ
sùng đạo “chiến sĩ” và “chinh phục” theo nghĩa đen của chúng! 10
Còn thành ngữ mà tây phương thường dùng “romanisation
du vietnamien” [la-mã hóa tiếng việt] lại là một sự trùng hợp rủi ro và dễ
tạo hiểu lầm. “Romanisation = la-mã hóa” có thể bị hiểu sai như là một sự
sửa đổi ngôn ngữ, bởi những người “Roma” (người Âu châu) theo quan điểm riêng của
họ với những âm hưởng tiêu cực của chủ nghĩa thực dân. Kỳ thực, đây là lối diễn
tả các âm tố của tiếng nói Việt Nam dựa vào một hệ thống mẫu tự của vần latinh,
thay vì dựa vào các âm hiệu lấy từ hệ thống chữ viết trung hoa. Vì sử dụng đã
quen, thành ngữ đó bất đắc dĩ phải lặp lại.
Nhưng dẫu thế nào, thì phải đợi đến năm 1993, người ta mới
chứng kiến việc phục hồi danh dự cho ông... nhưng một lần nữa, cũng một mình ông
được phục hồi danh dự mà thôi. Người ta tìm lại tấm bia kỷ niệm ông, đã được dựng
lên trước đây năm trong 1941, và đưa về ở khu vườn của thư viện quốc gia tại Hà
nội để khai trương lại vào năm 1995. 11 Nay ông được
tôn vinh lại như “người khai sinh” ra chữ viết Việt Nam. 12
Khi theo học các khóa căn bản về tiếng Việt tại Học viện
ngôn ngữ đông phương (Langues’O) ở Paris, chúng tôi thấy dáng dấp rất Bồ Đào
Nha trong chữ viết nầy; sự kiện đó đã gợi hứng cho các nỗ lực nghiên cứu vừa lịch
sử vừa ngữ học của chúng tôi, và giúp chúng tôi biết được phần nào những khối tư
liệu trước đây ít được biết đến và ít được trích dẫn. Chúng tôi thấy những tư
liệu nầy có thể đem lại một chỉ dẫn mới cho câu hỏi được đặt ra nơi tựa đề của
bài nầy. Theo ý chúng tôi, nhiều công trình nghiên cứu đã được xuất bản về
Alexandre de Rhodes dường như không được thỏa đáng vì chưa lưu ý đủ về bối cảnh
lịch sử và tôn giáo liên hệ đến toàn bộ sinh hoạt của ông tại Viễn Đông 13 --Thật thế, ông không phải là người đại diện
cho vua nước Pháp tại đây, nhưng là cho vua nước Bồ Đào Nha mà ông đã tuyên thệ
trung thành với tư cách là nhà truyền giáo đặt dưới sự bảo trợ của triều đình nước
ấy. 14 Từ đó, những kết luận của các công trình nghiên
cứu trước đây, theo ý chúng tôi, cần phải kiểm chứng lại. Ở đây, chúng tôi sẽ cố
gắng nêu lên trước hết bối cảnh lịch sử tổng quát, đúng theo nội dung được tìm
thấy nơi khối tư liệu mà chúng tôi sưu tra, để sau đó nắm kỹ hơn trong những hoàn
cảnh nào, do ai và trong mục đích gì việc áp dụng vần latinh tạo ra chữ viết Việt
Nam đã được thực hiện.
1. Cuộc gặp gỡ lịch sử giữa Bồ
Đào Nha và Việt Nam
Chúng ta sẽ nghiên cứu thời gian một thế kỷ rưởi, từ năm
1498, niên kỷ đánh dấu việc các tàu thuyền đầu tiên của Bồ Đào Nha đến Ấn Độ, đến
năm 1651, niên kỷ của việc xuất bản các tác phẩm được nêu lên ở đầu bài nầy. Trước
hết nên nhớ rằng Bồ Đào Nha đã chiếm và đã giữ được độc quyền hiện diện của những
người Âu châu tại Á châu 15 suốt một thế kỷ, về mặt
buôn bán cũng như về lãnh vực truyền giáo. Đến khúc ngoặt của thế kỷ XVI và thế
kỷ XVII, các đối thủ cạnh tranh về thương mại mới xuất hiện: đó là người Hòa
Lan và người Anh. Trong cả hai trường hợp nầy, những quốc gia liên hệ là những
quốc gia không công giáo, nên cả hai đều không có ảnh hưởng trực tiếp trên các
công cuộc truyền giáo của Bồ Đào Nha. Về phần mình, nước Pháp hoàn toàn vắng mặt
trên vùng đất Á châu suốt cả thời kỳ chúng ta đang bàn đến. Ngược lại, người ta
thấy có sự hiện diện gián tiếp của nước Ý: mặc dầu không một tiểu quốc nào của
bán đảo nầy đã hiện diện với tư cách quốc gia của mình, nhưng Bồ Đào Nha đã kết
tập vào trong hàng ngũ của họ, trước hết là những thuyền viên, sau đó đặc biệt
là những nhà truyền giáo gốc người Ý. Về sự kiện nầy Việt Nam cũng không phải là
ngoại lệ; và trong công cuộc truyền bá Kitô giáo, luôn được đặt dưới sự chi phối
của Bồ Đào Nha trong thời gian ấy, đã thấy có nhiều người Ý tài giỏi. Alexandre
de Rhodes, thần dân của Giáo hoàng và được đào tạo tại Roma, thuộc vào nhóm đó.
Nhưng trước khi nghiên cứu kỹ lưỡng về sinh hoạt của công cuộc truyền bá Kitô
giáo, cần định vị rõ hơn sự gặp gỡ giữa Bồ Đào Nha và Việt Nam. Sau năm 1511, 16 khi những thuyền nhân Bồ Đào Nha bắt đầu quay
lên hướng Bắc vượt qua eo biển Malacca, thì mục tiêu chính của họ là hai đế quốc
lớn, Nhật Bản và Trung Hoa. Chuổi dài các quốc gia nhỏ giữa Malacca và Macao, đối
với các thuyền nhân và thương gia chỉ được xem là những bến, trạm tiếp tế. 17 Còn đối với các nhà truyền giáo, khởi từ Phanxicô
Xavie 18 vào giữa thế kỷ XVI, mục đích các nỗ lực của họ
là nhằm làm cho hoàng đế Trung Hoa trở lại: người ta nghĩ rằng một khi có được
sự trở lại đạo nầy, thì các quốc gia lệ thuộc từ miền bắc Việt Nam (Đàng Ngoài)
đến Xiêm, hẳn phải noi theo. 19 Trong
khuôn khổ chiến lược truyền giáo như thế, các nước nhỏ nói trên không được xem
là ưu tiên.
Trong thực tế, những cuộc tiếp xúc đầu tiên giữa người Bồ
Đào Nha và Việt Nam được biết đến như những giai thoại. Người ta kể lại, qua
trí nhớ, có một bia đá được dựng lên năm 1524 trên đảo đối diện với hải cảng
Phe-phô, với người làm chứng là Fernão Mendes Pinto; 20 có một cố gắng rao giảng về Kitô giáo đầu tiên
vào năm 1533, mà người ta chỉ biết được qua một nguồn tài liệu duy nhất của Việt
Nam, có tính cách gián tiếp và trễ; 21 và cuối cùng
có một nhận định về ngữ học, không tích cực cho lắm, do Gaspar da Cruz trong một
lần cập bến vào năm 1555, được kể lại trong cuốn “Bản Tường Trình Về Trung
Hoa” của ông. 22
Những nỗ lực truyền giáo đầu tiên tại Việt Nam, mà các
nguồn tài liệu Tây phương lưu lại dấu tích, thực sự đã xảy ra sớm, từ cuối thế
kỷ XVI. Trong khuôn khổ chiến lược truyền giáo của họ, các vị tu sĩ dòng Tên cố
giữ độc quyền truyền giáo ở Trung Hoa và Nhật Bản; nhưng nhiều lần họ khích lệ
các dòng tu khác nên có sáng kiến truyền giáo tại các “nước nhỏ”. Vì thế mà vào
năm 1583, mới thấy xuất hiện đoàn truyền giáo đầu tiên dòng Phanxicô người Tây
ban nha đến Đàng Trong. Và đợt nầy hoàn toàn thất bại23 . Năm sau đó, lại có đợt truyền giáo lần thứ
hai; Bartolomé Ruiz, đã từng thực hiện đợt truyền giáo đầu, tuy thành công sống
được một mình ở vùng Đà nẵng trong vòng gần hai năm, nhưng không gặt được kết
quả gì hơn. 24 Do sự trung gian trọng tài của vua Philippe
II nước Tây ban nha, hai tu sĩ dòng Phanxicô người Bồ đào nha nối tiếp đến lại,
nhưng cũng chỉ lưu lại được sáu tháng. 25
Vào cuối thế kỷ ấy, các vị ẩn sĩ dòng thánh Augustinô người Bồ Đào Nha, đến
phiên họ, củng cố gắng vào truyền giáo hai lần 26 nhưng kết quả rất khiêm tốn, và bỏ cuộc vì những
lý do đặc biệt là tiếp liệu. 27 Ký sự của
các tu sĩ dòng Phanxicô và dòng Augustinô hé cho thấy rằng vào dịp nầy việc gặp
gỡ giữa các nền văn hóa thực như là một đối thoại giữa những người điếc. Nó không
đem lại những kết quả thấy được một cách cụ thể trong bối cảnh Việt Nam.
Trong lịch sử cuộc bành trướng của Bồ Đào Nha, việc lưu ý
thật sự đến Việt Nam xuất hiện khá trễ. Yếu tố quyết định phát sinh do việc Nhật
Bản đóng cửa không cho buôn bán cũng như truyền giáo, trong những thập niên đầu
của thế kỷ XVIIe. 28
Vào thế kỷ 17, Việt Nam tự gọi tên là Đại Việt, danh xưng
nội bộ; tên gọi “An Nam” dùng trong khuôn khổ các mối quan hệ với Trung Hoa và
thế giới bên ngoài. Biên giới phía nam bấy giờ là phía bắc của Nha Trang hiện
nay, cho đến năm 1653 - Toàn xứ có một sự thống nhất trên danh xưng đặt dưới sự
cai trị của nhà Lê phục hưng. Nhưng trong thực tế, hai miền do hai Chúa cai quản
được phân ranh do con sông Gianh, ở vĩ tuyến 18; cha truyền con nối chúa Trịnh
cai trị Đàng Ngoài phía Bắc, chúa Nguyễn, Đàng Trong, phía nam. Việc phân cách
dứt khoát xảy ra vào năm 1614, năm mà xứ Đàng Trong của chúa Nguyễn đuổi các
quan lại từ Bắc vào. Xứ Đàng Trong tân lập, vì đất hẹp và dân nghèo, nên quyết
tâm mở rộng ngoại thương để cầu sự thịnh vượng; xứ ấy sẽ là khách hàng buôn bán
ưu đãi trong vùng của người Bồ Đào Nha ở đảo Macao trong một thời gian rất lâu.
Từ ngữ Bồ đào nha gọi Đàng Trong là “Cochinchine” [do chữ Kochi là cách gọi tên
nước Việt Nam của người Mã lai và Nhật bản, rồi thêm vào chữ “Chine” để phân biệt
với Cochim là một thành phố ở Ấn độ (Cochin)], lúc đầu được áp dụng cho toàn nước
Đại Việt, nhưng vào chính thời ấy lại được hiểu là vùng đất của chúa Nguyễn. Chúa
Nguyễn thường được gọi là “vua xứ Cochinchine” ngay trong các bản văn, dẫu các
tác giả am tường tình thế vẫn thường nhắc lại rằng đây chỉ là một “alevantado”,
tức là một gia thần chống lại vị vua thật đang trị vì ở miền Bắc. Còn vùng đất
chúa Trịnh phía Bắc, người Bồ đào nha gọi là vương quốc “TUNQUIM” (do chữ Đông
kinh) một chữ hán việt có nghĩa là “kinh đô miền đông”, và rõ rệt hơn là Thăng
long, tức Hà nội ngày nay, kinh đô của nhà Lê và chúa Trịnh.29
Vào khoảng năm
1616, thể theo lời mời của chính quyền Đàng Trong Việt Nam, một số dự án di cư
- định cư của Bồ Đào Nha được đề nghị 30 và được sự hỗ trợ của phó vương Jerónimo de
Azevedo và triều đình.31 Nhưng các phó vương João
Coutinho và Francisco de Gama nhất quyết bác bỏ, nên dự án ấy32 bị dẹp đi ngoại trừ những lãnh vực
thuần túy tôn giáo được nêu lên trong dự án. Nếu chủ tâm tìm lợi ích trên bình
diện chính thức của nước Bồ Đào Nha đối với Việt Nam, bấy giờ sớm nguội dần chỉ
còn leo lét, thì ngược lại có một sự hợp tác thương mãi đều đặn giữa thành phố
Macao và hai xứ của Việt Nam. Sự hợp tác thương mãi đó kéo dài trong hai thế kỷ
với những thành quả bất thường. Những khía cạnh chính trị và thương mải nêu lên
đây đã được nhiều công trình nghiên cứu lỗi lạc khai thác, đặc biệt là của
Pierre-Yves Manguin 33 và của Georges Bryan Souza, 34 cũng như xuyên qua nhiều tác phẩm đã được xuất
bản của Manuel Teixeira.35 Chúng ta sẽ không trở lại
vấn đề ấy.
Trong địa hạt tôn giáo, các miền truyền giáo tại Việt Nam
được Tỉnh Dòng Tên của Nhật Bản, liên hệ với các tòa giám mục Bồ Đào Nha ở
Malacca và Macao,36 chính thức thành lập: ở Đàng Trong vào năm
1615,37 ở
Đàng Ngoài vào năm 1627.38 Tỉnh dòng Nhật bản của dòng
Tên hoàn toàn thuộc quyền Bồ đào nha và do nước Bồ đào nha tài trợ trong khuôn
khổ bảo trợ của hoàng gia. Nhân sự đa số người Bồ đào nha, nhưng ngay từ đầu có
nhiều người Ý trong đó; có người Nhật, nhưng chỉ ở vào thành phần thuộc cấp, kể
từ cuối thế kỷ XVI. Tỉnh dòng ấy nới rộng dần lãnh thổ quyền hạn của mình đến
Trung hoa (sau nầy trở thành phó-tỉnh dòng tự trị) và đặt trụ sở tại Macao. Vào
thời kỳ chúng ta đang nghiên cứu, tỉnh dòng nầy cố nới rộng về phía Đông dương
và các vùng bán đảo phía nam Thái bình dương, hướng theo các con đường hàng hải
khởi từ Macao. Thường các tu sĩ dòng Tên ít khi lưu ý đến các thẩm quyền các địa
phận, mặc dầu trên lý thuyết các thẩm quyền nầy được trao trách nhiệm phối trí
công việc truyền giáo.
Hai cơ sở thuộc Bồ đào nha và thuộc dòng Tên tại Đàng
Trong và Đàng Ngoài đã gặt hái thành quả lớn lao, xây dựng nền tảng chắc chắn
cho cộng đồng Kitô giáo Việt Nam. Vào năm 1658, khi Tòa thánh từ chối không công
nhận triều vua Bồ Đào Nha mới được phục hưng,39 nên đã quyết định đặt các vùng truyền giáo nầy
dưới quyền mình,40 thì bấy giờ đã có gần 70 nhà truyền giáo với tám
quốc tịch khác nhau kế tiếp đến Việt Nam, trong đó có 35 người Bồ Đào Nha, 19
người Ý và 7 người Nhật Bản.41
Hai vương quyền Tây ban nha và Bồ đào nha thống nhất làm
một từ năm 1580 đến năm 1640; nhưng sự thống nhất tập trung vào một người không
đi đôi với việc hợp nhất các chính phủ, các cơ quan hành chánh, các thuộc địa hải
ngoại, mà đôi lúc quyền lợi mỗi nước lại vẫn tương phản. Dưới triều đại vua
Philippe IV Tây ban nha (từ năm 1621), nước Bồ đào nha càng ngày càng gặp khó
khăn và mất mát tất cả do sự thống nhất vương quyền vào một người, kể cả vùng
Viễn đông. Một cuộc đảo chính đưa Jean IV de Bragance (1640-1656) lên ngôi vua.
Tòa thánh vẫn tiếp tục nhìn nhận Philippe IV như là vị vua của Bồ đào nha cho đến
ngày vua nầy mất (1665). Ngược lại, Bồ đào nha phục hưng lại thành công thuyết
phục được nước Pháp vào phe mình (các hiệp định 1641 và 1655), sự kiện đó mở đường
cho các nhà truyền giáo người Pháp đến các vùng đất truyền giáo thuộc quyền Bồ đào
nha, sau năm 1655. Và công việc xảy ra thực sự kể từ năm 1658.
Cũng chính vào lúc ấy, dựa vào những ước tính ít lạc quan
nhất, đã có hơn 100.000 Kitô hữu Việt Nam,42 rải rác ở trong hàng trăm cộng đoàn địa phương.43 Họ được hướng dẫn bởi những giáo dân Việt Nam
có trình độ đào tạo vững chắc,44 đủ khả năng
để đương đầu với những hoàn cảnh khó khăn nhất ngay từ 1644 - 1645, họ đã từng
có những vị tử đạo của họ trong số đó Macao còn nhớ đến thầy giảng giáo lý trẻ
tuổi An-rê, người đầu tiên trong một danh sách rất dài.45 Một thành quả như vậy còn đáng làm ta ngạc nhiên
hơn nữa vì đã được thực hiện bên ngoài sự hiện diện của bất cứ hình thức quân sự
hay cường lực nào. Trong cùng một thời gian ấy, cộng đồng Kitô giáo rực rỡ của
Nhật Bản đang gặp nguy cơ bị tàn lụi, còn cộng đồng ở Trung Hoa đang gặp phải
khó khăn; Xiêm bấy giờ có độ khoảng 200 tín hữu thôi, và Macassar thì chỉ có một
nhóm nhỏ.46 Đối với toàn bộ Á châu, ngoài hai vùng nhỏ là
Goa và Macao, thì chính tại Việt Nam và tại Sri Lanka mà người ta chứng kiến được
rõ nét nhất sự liên tục lịch sử giữa công cuộc truyền giáo Bồ Đào Nha với các
Giáo hội kitô giáo hiện nay.
2. Công cuộc truyền giáo của dòng
Tên tại Việt Nam và tiếng Việt
Ở Việt Nam cũng
như ở các nơi khác, nỗ lực truyền giáo đã đi đôi với những thực hiện cao độ
trong lãnh vực văn hóa. Năm 1615 ngay khi khởi công truyền giáo tại Việt Nam, các
tu sĩ dòng Tên của tỉnh dòng Nhật Bản đã có một kinh nghiệm hơn hai mươi năm
nghiên cứu và sáng chế về ngữ học tiếng Nhật.47 Sự kiện đó rất hữu ích vì đối chiếu với tiếng
Trung Hoa, tiếng Việt và tiếng Nhật có một vị thế tương tự, và vì hai thứ tiếng
nầy cùng chịu chung một loại ảnh hưởng xuyên qua lối chữ vuông.48
Những bản dịch
các bản văn Kitô giáo đầu tiên ra tiếng Việt có từ năm 1618, và phần thiết yếu
do công của Francisco de Pina, linh mục dòng Tên sinh ở Bồ Đào Nha;49 ông đã tốt nghiệp ở trường Macao, bấy giờ nhà
văn phạm nổi tiếng về tiếng Nhật Jaão Rodrigues “TÒuzzu” cũng hiện diện tại đấy
từ năm 1610.50 Trong công việc của mình, linh mục Pina nhờ đến
sự giúp đỡ rất hữu hiệu của một văn nhân Việt Nam trẻ tuổi có tên rửa tội là Phêrô;
kiến thức uyên bác về chữ Hán của người trẻ tuổi nầy hẳn rất là hữu ích trong công
việc của Pina.
Những sự kiện
đó rút ra từ một bản phúc trình chính thức của cơ sở truyền giáo: “người ấy [một
nhân sĩ thân quen với đoàn truyền giáo] có một người con trai mười sáu tuổi, là
thanh niên lanh lợi và thông minh nhất trong vùng; anh nầy lại viết tiếng hán rất
đẹp, được dân chúng hâm mộ vô cùng... Anh tên thánh rửa tội là Phêrô, nhờ có tài
hay chữ nên giúp linh mục rất nhiều trong việc dịch kinh Pater noster, Ave
Maria, Credo và Mười điều răn ra tiếng địa phương, (các kinh) mà Kitô hữu đã
thuộc lòng. Linh mục cũng viết ra các điều phải tin bằng tiếng địa phương ấy;
trong bản đó người ta tuyên xưng rõ rệt chỉ có một Đức Chúa Trời, các mầu nhiệm
về Ba Ngôi, về Chúa Nhập thể làm người, về chuộc tội, cũng như sự cần thiết của
đức tin và các bí tích để được tham dự vào ơn ích của Chúa Kitô, Chúa chúng ta.
Các kitô hữu chép lại tất cả những điều ấy, và đã bắt đầu lần hạt mân côi y như
tại xứ chúng ta.51 Theo thói quen thực hiện các biên bản hằng năm
của các tu sĩ dòng Tên, “linh mục”, tác giả các công trình liên hệ không minh
nhiên được nêu tên. Ba tu sĩ dòng Tên bấy giờ có mặt tại cơ sở truyền giáo Pulo
Cambi (có thể tương ứng với tên gọi Quy Nhơn ngày nay), lúc công trình nầy tiến
hành là: linh mục Buzomi, bị “bịnh nặng, nên không đi giảng cho người ta trở lại
được”,52 linh mục Pina và linh mục Borri, một người vừa
đến và mới bắt đầu học tiếng. Chúng ta hiểu rằng các công trình được thực hiện
dưới sự giám sát của Buzomi, cựu bề trên cơ sở truyền giáo Đàng Trong
(1615-1618) và hiện là bề trên cơ sở địa phương, nhưng những tác nhân chính yếu
thực hiện công trình nầy là linh mục Pina và chàng thanh niên Việt Nam cộng tác
với ông ấy. Theo chính lời xác nhận của chính linh mục Pina, ngay từ năm 1622, ông
đã hoàn thành việc xây dựng một hệ thống chuyển mẫu tự latinh cho thích hợp với
lối phát âm và thanh điệu tiếng Việt Nam. Ông đã làm được một tuyển tập và bắt đầu
viết một bản văn phạm. Kết quả đó, linh mục Pina đã đạt được một cách vất vả, với
sự trợ giúp của một số ít học sinh Việt Nam qui tụ chung quanh ông.53
Nhà chép sử dòng
Tên Bartoli cho rằng Buzomi sáng tác một hệ thống văn phạm và ngữ vựng.54 Một trong những chứng lý là một bức thư viết năm
1662 mà chúng tôi không thể tìm ra. Có thể có sự lẫn lộn với Pina chăng. Một cách
chung, các xác quyết của Bartoli liên quan đến các kiến thức ngữ học tuyệt vời
của người đồng hương của ông là Buzomi lại không ăn khớp với những tài liệu tồn
trữ mà chúng ta có thể truy cứu. Ngoài ra cũng cần lưu ý rằng Bartoli xem ra không
biết đến những công trình sáng tác ngữ học của Pina, lại nhìn nhận khả năng của
vị nầy. Tiếp sau bản tường thuật về cái chết của nhà truyền giáo Bồ đào nha ngày
15 tháng 12 năm 1625, Bartoli đã viết như thế nầy thay cho bài điếu văn: ” Linh
mục Pina là người Bồ đào nha, thọ 40 tuổi. Ngài được người ngoại giáo mến chuộng
, vì ngài nói tiếng của họ, như chính ngài là người bản xứ Đàng Trong vậy”.55
Năm 1624, Francisco de Pina mở trường dạy tiếng Việt cho
những người ngoại quốc đầu tiên,56 trong đó
có hai học trò rất cự phách: linh mục người Bồ Đào Nha António de Fontes,57 một nhà truyền giáo kỳ cựu và sẽ là một trong
những cột trụ cho xứ truyền giáo Đàng Trong; và Alexandre de Rhodes mà chúng ta
nói đến. Vị nầy sớm được gọi để thành lập xứ truyền giáo Đàng Ngoài, nơi mà Ngài
sẽ thực hiện sứ mạng của mình từ năm 1627 đến năm 1630.
Ngày 15 tháng 12 năm 1625, một tàu buồm Bồ đào nha bỏ neo
ở vịnh Đà nẳng, không cập bến được vì sợ bão. Một chiếc thuyền rời cảng đi đến
tàu. Pina lên tàu để mang hàng hóa cần thiết lên bờ: rượu vang và bột lúa mì để
dâng lễ. Khi trở lại bờ, một cơn gió mạnh làm chìm thuyền; bị vướng bởi chiếc áo
dòng, Pina chết đuối, trong lúc thủy thủ đoàn được cứu. Đây là cái tang lớn cho
dân chúng địa phương cũng như cho sở truyền giáo; một chiếu chỉ trục xuất các
nhà truyền giáo được đình chỉ thi hành, cho phép cử tang trong ba tháng, và rồi
lại hủy bỏ luôn.58
Nhưng đừng tưởng rằng sau cái chết bi thảm của Francisco
de Pina, các nhà truyền giáo Bồ Đào Nha đã giảm bớt nỗ lực về ngữ học. Công việc
của các vị tiên phong ấy vẫn được tiếp tục ít nhất trong hai thập niên. Cố gắng
của họ trước hết nhằm sáng tạo một ngữ vựng Kitô giáo và viết ra những phần căn
bản về văn chương Kitô giáo.59 Vai trò của
các văn nhân Kitô giáo Việt Nam ở đây cũng rất lớn; một số tên tuổi của họ cần được
nêu lên.60
Mặt khác nỗ lực phân tích văn phạm và ngữ âm tiếng Việt được
tiếp tục nghiên cứu một cách có hệ thống để kiện toàn dần hồi lối viết bằng mẫu
tự latinh gọi là quốc ngữ, đây là một công trình tập thể, khó mà phân định được
phần riêng nào của một ai. Nhưng điều chắc chắn là Alexandre de Rhodes sớm tách
ra khỏi công trình tiếp tục nầy vì vào lúc ấy ông vắng mặt ở xa tận Macao từ năm
1630 đến 1640: Ở tại đây, ông thi hành tác vụ của mình trong môi trường sống của
người Trung Hoa, mặc dầu vẫn tiếp tục theo dõi những tiến bộ được thực hiện tại
Việt Nam.61 Chính ông đã nêu tên của hai nhà từ-vựng-học nổi
tiếng nhất trong bài tựa cuốn từ điển62 : hai người
Bồ Đào Nha Gaspar do Amaral63 và António
Barbosa.64
Trong công trình sáng tác độc đáo nầy của các linh mục dòng
Tên Bồ Đào Nha ở Việt Nam, giai đoạn trưởng thành đánh dấu bằng một cuộc định
chuẩn, một cuộc thảo luận mâu thuẫn được tổ chức tại Macao vào năm 1645 để bàn
về một vấn đề gây tranh cãi liên quan đến hệ thống thuật ngữ Kitô giáo bằng tiếng
Việt.65 Kho tài liệu lưu trữ còn giữ lại cho chúng ta
tên tuổi các chuyên gia lão luyện chi phối các cuộc thảo luận: bên cạnh Amaral,
được chỉ định như nhà chuyên môn tài ba nhất (peritissimus), và Barbosa, còn thấy
Baltazar Caldeira, sinh ở Macao, cũng như Manuel Pacheco và Pêro Alberto; hai vị
sau nầy đều sinh ở Bồ Đào Nha. Đối diện với họ, Alexandre de Rhodes chủ trương
một lập trường trái ngược; và ý kiến của ông bị gạt bỏ. Mặc dầu sau đó một vị dòng
Tên người Sicilia còn trẻ, tên Metello Saccano66 hăng say hỗ trợ cho lập trường của ông, nhưng
rồi quyết định trên vẫn giữ lại.
Thực ra, vấn đề không chấm dứt ở cuộc hội năm 1645. Theo đề
nghị của Alexandre de Rhodes, vấn đề được đưa về Roma và được nghiên cứu lại
trong những năm của thập niên 1650 trước bộ Truyền bá Đức tin, và sau đó trước
bộ Thánh vụ.67 Có một bức thư khá kỳ lạ của tu sĩ dòng Tên người
Ý Giovani Filippo Marini gửi cho các bề trên của mình tại Rôma về việc nầy, thư
viết vào năm 1655.68 Với giọng văn có vẽ
tranh cãi, trong thư tác giả nêu lên khả năng đáng nghi ngờ của Rhodes về ngữ học
Việt Nam. Tu sĩ nầy cố đánh giá thấp Rhodes vì Rhodes nói theo tiếng Đàng
Trong, “đánh giá là quê kệch” so với tiếng chuẩn ở kinh đô; cũng với tiếng nói
phía nam ấy mà chính tả của cuốn Từ điển dường như thấy xuất hiện trong một vài
trường hợp. Nhưng cốt lõi vấn đề không phải ở đó: nó liên quan đến nghĩa chính
xác của lối nói hán-việt (không liên quan đến âm giọng địa phương) “nhin
danh [Cha]”. Lối nói nầy về mặt thần học mơ hồ vì thiếu một chữ nhằm nói đến
số ít về mặt văn phạm. Rhodes đòi phải thêm vào một phụ-từ, sợ rằng người ta
nghĩ có ba “danh”, và như thế là ba quyền lực siêu nhiên khác biệt; trong trường
hợp đó, phải chăng đã đi ra ngoài tín lý kitô giáo, và phải chăng phải nghĩ đến
chuyện rửa tội lại các kitô hữu.
Nên lưu ý là lối nói do các vị chuyên môn của cuộc họp định
chuẩn nầy vẫn còn được sử dụng trong Giáo hội Việt Nam ngày hôm nay. Tất cả các
nhà chuyên môn ấy, đều là người Bồ đào nha.
3. Những người Bồ Đào Nha tại
Viễn Đông: tiếng tăm của họ và những tiền kiến lịch sử
Người ta có thể tự hỏi tại sao lịch sử đã ghi lại quá ít
những sự việc nầy, đến độ đôi khi xem sự hiện diện và công việc làm của các nhà
truyền giáo Bồ Đào Nha ở Việt Nam như quá ít ỏi không đáng kể. Hẳn nhiên, hình ảnh
của Bồ Đào Nha ngày nay trên thế giới đã xuống cấp: xưa kia là một cường quốc
thế giới, nhưng nay quốc gia nầy đi đến độ hầu như là hình ảnh “Cô Lọ Lem”
của Tây Âu. Thực ra, ngay từ các thế kỷ trước đã từng có lập trường chống Bồ Đào
Nha, mà sự kiện ghi lại một cách chắc chắn trong các tài liệu. Qua các tài liệu
nầy, chúng ta có hai thí dụ.
Năm 1653, tu sĩ dòng Tên người Ý Daniello Bartoli trình lên
ban kiểm duyệt của Hội Dòng một bộ sách lớn viết về lịch sử rao giảng Phúc Âm ở
Trung Hoa, bộ sách đó cũng sẽ là đại tác phẩm cổ điển đầu tiên về công cuộc
truyền giáo tại Việt Nam;69 hai trong ba vị kiểm duyệt
bấy giờ đã trách cứ tác giả về lập trường chống Bồ Đào Nha của ông.70 Người ta cũng thấy một phản ứng tương tự trong
bản chính của các thư của Goswin Nickel, Bề trên tổng quyền của các tu sĩ dòng
Tên, gửi vào giữa các năm 1655 và 1662 cho các tu sĩ trong dòng gốc người Ý và
người Pháp ở Việt Nam và Viễn Đông. Trong các thư, ngài tỏ ra khó chịu về những
lời tấn công có tính cách cố chấp của các tu sĩ trên đây chống lại những vị người
Bồ Đào Nha, các phương pháp cũng như các việc họ thực hiện: các cha có quyền tố
giác các lỗi lầm của người nầy hay người nọ, nhưng làm mất uy tín một quốc gia
một cách chung như thế thì không thể chấp nhận được,71 ngài nói một cách thiết yếu với các vị liên hệ
như thế.
Nên đặt gần hai sự kiện đó với hai dữ kiện lịch sử khác
thường được biết đến. Các vị thừa sai Paris và các vị giám quản tông tòa do Tòa
thánh gởi đến Việt Nam từ năm 165972 chỉ có thể
cũng cố được quyền uy của mình tại nước nầy với giá của một cuộc xung đột lâu dài
và cam go chống lại các tu sĩ dòng Tên: Các vị dòng Tên chống lại họ nhân danh
sự trung thành hầu như không suy suyển đối với sự bảo trợ của triều đình Bồ Đào
Nha.73 Trong cuộc tranh cãi sôi động nầy và tiếp theo
đó, dường như người ta đã đưa ra nhiều phê phán bất công: có khuynh hướng muốn
nêu lên tình trạng vô-thẩm-quyền về mặt pháp lý hoặc sự bất lực của những vị đến
trước, hoặc phóng đại những thiếu sót của họ để biện minh cho sự can thiệp độc đoán
của kẻ mới đến. Cuối cùng như ở phần đầu, chúng tôi đã nêu lên vai trò đặc biệt
của Pháp tại Việt Nam hai thế kỷ sau đó: vì muốn truy tìm những sự kiện đã có từ
xa xưa nơi “cuộc viễn chinh của mình”, trong đó việc truyền bá Phúc âm, xâm lăng
bằng quân sự và ý đồ thực dân chen lẫn với nhau, mà người ta tin là khởi thủy có
từ năm 1624, năm Alexandre de Rhodes đến Việt Nam, xem đây như một dấu chỉ của
một sự tiền định về vai trò mà nước Pháp và người Pháp được gọi để thi hành tại
xứ này.74
Chúng tôi nghĩ rằng đây hẳn là toàn bộ các sự kiện có thể
giải thích phần nào về sự quên lảng, giảm thiểu, ngay cả việc xóa bỏ vai trò cốt
cán mà Bồ Đào Nha đã thực hiện tại Việt Nam xuyên qua các vị truyền giáo dòng Tên
trong thế kỷ XVII, nơi những tác phẩm đặc biệt nghiên cứu vấn đề liên hệ.75 Ngoài ra phần lớn các tác phẩm nầy đã được xuất
bản trong khung cảnh văn hóa của Pháp76 : người
ta cố ý làm nổi bật sự hiện diện và ảnh hưởng của Pháp,77 đôi khi có tính cách phản niên kỷ. Còn đối với
giới nghiên cứu người Việt, cho đến nay dường như hầu hết họ khó tránh khỏi
tình trạng bất cập vì không thông hiểu tiếng Bồ Đào Nha, nên phần lớn chịu ảnh
hưởng của những gì đã được xuất bản bằng tiếng Pháp.78 Năm 1990, một Hội Nghị Khoa Học Quốc Tế về thành
phố Hội An đã được tổ chức tại Đà Nẵng. Nếu dựa vào bối cảnh được trình bày trên
đây, người ta sẽ không ngạc nhiên khi thấy không những cựu đế quốc thực dân bị đặt
ra bên lề, mà ngay cả nước Bồ Đào Nha cũng bị lảng quên, trong khi đó lại có phần
của Hòa Lan.79
Đối với người Việt Nam hôm nay, vấn đề gặp gỡ các nền văn
hóa giữa Việt Nam và Tây phương còn vướng vấp nhiều điểm gây tranh cãi, như
chính chúng tôi đã từng kinh nghiệm được.80
4. Cuộc tranh luận về lịch sử được
nêu lên lại như thế nào?
Cũng vào năm 1645, thời điểm tổ chức tại Macao cuộc bàn
luận ngữ học với nhiều ý kiến mâu thuẫn như đã nêu lên, thì Alexandre de Rhodes
lại được vị bề trên Manuel de Azevedo ủy thác một sứ mệnh tại Roma.81 Chúng tôi sẽ không đề cập ở đây về những khía
cạnh ngoại giao của chuyến đi, cũng như những hậu quả của chuyến đi ấy đối với
các xứ truyền giáo tại Viễn Đông82 : những hậu
quả nầy rất đau khổ cho Bồ Đào Nha, nhưng không thể qui lỗi cho linh mục
Rhodes.83 Chúng tôi chỉ muốn ghi lại một sự thành công
không thể chối cãi và cũng không ai đặt thành vấn đề: việc xuất bản tại Roma cuốn
từ điển và cuốn giáo lý mà nhà truyền giáo ấy mang theo trong hành lý của mình,
cũng như một số tác phẩm lịch sử khác về công cuộc truyền giáo tại Việt Nam. Dựa
vào những tác phẩm được xuất bản nầy mà nhân vật Alexandre de Rhodes bắt đầu trở
thành truyền thuyết, hầu như thần thoại đối với lịch sử của các công cuộc truyền
giáo tại Việt Nam cũng như đối với lịch sử tiếng Việt.84
Chúng tôi thấy đây là một sự sai lầm về lịch sử. Hẳn nhiên,
Rhodes là một nhà truyền giáo lớn, nhưng không phải là một siêu nhân: khẩn thiết
phải trả lại thực trạng con người cho con người ấy, và đặt lại công trạng nầy
trong bối cảnh lịch sử thật của nó. Ngoài những vấn đề liên quan đến nỗ lực xây
dựng cho ngữ học Việt Nam, mà chúng ta sẽ bàn thảo, chúng ta nêu lên đây một vấn
đề khác nữa.
Kitô giáo tại Việt Nam, mặc dầu đã được du nhập vào từ ba
thế kỷ rưởi, vẫn còn là một thiểu số bị chống đối; thiểu số đó đã từng chịu đựng
và còn tiếp tục chịu đựng một sự tẩy chay thực sự trong xã hội. Nhiều người gièm
pha trách cứ rằng Kitô giáo đã được nhập cảng đến trong mớ hành lý của giới thực
dân người Pháp, mà hẳn Alexandre de Rhodes là kẻ mở đường.85 Việc phục hồi danh dự rất gần đây cho vị nầy từ
phía nhà cầm quyền không gột bỏ hết truyền thuyết xấu xa đó, đặc biệt trong sinh
hoạt hải ngoại của người Việt Nam.86 Thiết định
lại sự thật lịch sử về những nguồn gốc của cộng đồng công giáo sẽ nêu lên được
một cách hiển nhiên những thực trạng hoàn toàn khác: chính trong khuôn khổ của
một sự đối thoại và trao đổi với nhau, một cách hoàn toàn bình thản, giữa người
Bồ Đào Nha và người Việt Nam mà các nhà truyền giáo, những con người tự do và
chân thành, đã thành công trong việc làm cho một phần dân chúng nghe theo mình.
Trong bầu khí thông cảm xâu sa, họ đã hòa mình vào ngôn ngữ và tập tục của những
người đối thoại với họ; những người nghe họ đã chọn lựa một cách tự do, và gia
nhập vào đức tin mới, được biểu lộ ra trong chính ngôn ngữ của mình. Trong
khung cảnh như thế, linh mục Rhodes, thần dân của Giáo hoàng, đã thi hành tác vụ
của ông y như các huynh đệ cùng dòng người Bồ Đào Nha, Ý hoặc Nhật Bản.
Tìm lại sự thật lịch sử, đằng sau huyền thoại được tô vẽ
trong cái nhìn theo lối Pháp, là một nỗ lực đặc biệt gian nan và bạc bẽo. Nhưng
để thực hiện công tác nầy, sử gia nghiên cứu về công cuộc truyền giáo tại Việt
Nam lại có được những nguồn tài liệu phong phú. Đây không phải là những tài liệu
chính thức, dẫu thuộc lãnh vực chính trị hay kinh tế; những tài liệu như thế đã
từng được biết đến và phần lớn đã được xuất bản và khai thác. Hơn nữa, chẳng
bao giờ có thuộc địa Bồ Đào Nha thực sự tại Việt Nam và những trao đổi chính trị
lại rất ít: hiệp ước duy nhất là thỏa ước nhất thời Bồ-Việt năm 178687 . Loại tài liệu ấy chỉ giúp xác định bối cảnh
xã hội, kinh tế của công cuộc truyền giáo, chớ không xác định được nội dung của
nó.
Phần thiết yếu của các nguồn tài liệu gồm các bản chép
tay do các tu sĩ, phần lớn lại chưa xuất bản. Nói chung, thì ta nên lưu ý là những
tài liệu chưa xuất bản có giá trị nghiên cứu hơn những bản đã được xuất bản, nếu
chúng có thể tìm được, vì thời đó việc xuất bản trước hết nhằm đào tạo những tâm
hồn đạo đức của Âu châu88 và do đó có thể được gọt
giũa cho ăn khớp với mục đích nầy. Những bản viết tay, đặc biệt là những bản báo
cáo chính thức và trao đổi thư từ riêng tư giữa các tu sĩ dòng Tên, phần lớn được
lưu trữ ở Lisbonne, ở Madrid và nhất là ở Roma, rải rác trong nhiều bộ sưu tập.89 Chúng được viết bằng tiếng Bồ Đào Nha, một số
ít bằng tiếng latinh, và đôi khi bằng tiếng Ý. Chính nội dung của chúng sẽ cho
phép ta thiết lập lại niên kỷ của công cuộc truyền giáo một cách chi tiết, và
thấy rõ vai trò của mỗi một tác nhân trong công cuộc truyền giáo nầy một một cách
đúng mức. Cũng nhờ việc làm nầy, các tiến bộ và những bất ngờ của sinh hoạt ngữ
học và văn hóa của các tu sĩ dòng Tên Bồ Đào Nha ở Việt Nam sẽ được đưa ra ánh
sáng, với tên tuổi của những vị khởi xướng đầu tiên.
Việc xuất bản và khai thác các nguồn tài liệu nầy là một
công trình còn mở ngỏ. Đối với chúng tôi, chúng tôi đã ưu tiên thực hiện việc
tra cứu mục lục các tài liệu liên quan đến nửa thế kỷ đầu tiên, tức là nửa thế
kỷ đã từng chứng kiến phần thiết yếu của công trình sáng chế (1615 - 1664). Nhưng
việc thẩm định lại giá trị toàn bộ sẽ phải là một công trình tập thể dài hơi, đòi
hỏi nhiều yếu tố, trong đó có việc nối kết lại những mối liên lạc hợp tác văn hóa
giữa người Bồ Đào Nha và người Việt Nam. Cần có một thế hệ các nhà nghiên cứu
người Việt trong tương lai có thể tham gia tích cực vào công tác nầy.90 Một mặt họ sẽ không chen chân vào những cuộc
tranh cãi nội bộ giữa các người Âu châu, điều mà họ không dính dáng gì vào; mặt
khác chỉ có sự đóng góp của chính họ mới truy cứu được thấu đáo những mối liên
hệ văn hóa qua những gì đã được từng thực hiện trong cuộc gặp gỡ lịch sử vào thế
kỷ XVII.
5. Tra cứu lại bộ hồ sơ ngữ học
Mặc dầu có việc xuất bản gần đây về các nguồn tài liệu của
Trung Hoa về ngữ học Việt Nam trong lịch sử,91 thì cuốn từ điển và cuốn giáo lý đã xuất bản tại
Roma vào năm 1651 vẫn là hai tác phẩm nền tảng không thể thay thế để biết được
thực trạng của tiếng nói nầy vào thế kỷ XVII, và sự tiến hóa của nó. Nhưng sự
kiện chúng đã được xuất bản dưới tên tuổi duy nhất của Alexandre de Rhodes dường
như không còn được đặt thành vấn đề để truy cứu cho tận tường hồ sơ ngữ học. Đến
mức độ nào ông là tác giả thật sự của các tác phẩm nầy? Bằng cách nào ông đã mượn
lại những công trình của các vị đi trước mình, trong tư thế của một nhà sưu tập
hoặc người biên tập bản văn cuối cùng? Thật khó mà trả lời một cách thích đáng
các câu hỏi nầy; nhưng chúng phải được nêu lên, và phải được tra cứu một cách đứng
đắn nhờ những chứng cớ đã được viết ra mà ta có thể có.
Thật vậy, ý niệm về sở hữu văn chương nơi các tu sĩ dòng
Tên vào thế kỷ XVII không y như ý niệm ta có bây giờ; chúng ta đưa ra đây hai
thí dụ: Ta thấy bản tường thuật về việc tử đạo của thầy giảng Anrê, mà bản gốc
bằng tiếng Bồ Đào Nha chắc chắn do chính linh mục Rhodes viết ra, nhưng đôi khi
được lấy lại từng chữ một dưới tên các tác giả Matias da Maia,92 Antônio Francisco Cardim93 hoặc Manuel Ferreira94. Ngược lại, Rhodes đã xuất
bản dưới tên mình một bản tường thuật liên quan đến các vị tử đạo Nhật Bản, mà
tổng thể lại lấy lại những ký sự của các tu sĩ dòng Tên.95 Như thế, khi người ta quyết định cho xuất bản
hoặc tái bản một bản văn được thuận nhận để phổ biến, thì người được đề cử làm
công việc nầy lại ghi tên mình vào đó, và mang trách nhiệm cá nhân về công tác
của mình. Trong trường hợp của linh mục Rhodes và các vị tử đạo của Nhật Bản, có
lẽ đã dựa vào danh tiếng đang lên của con người Avignon nầy để mang cho cuốn sách
được phổ biến rộng rãi hơn.
Về hai tác phẩm viết bằng tiếng Việt Nam do Bộ Truyền bá Đức
tin xuất bản, hẳn không có vấn đề bán ra cho dân chúng; mục đích duy nhất là phục
vụ công cuộc truyền giáo. Do sự kiện Rhodes là người duy nhất ở Roma biết đến
ngôn ngữ ấy, thì ông cần đích thân bảo chứng các tác phẩm liên hệ, mang lấy trách
nhiệm tối hậu trước các vị bề trên của mình và trước Tòa thánh. Sự kiện tên ông
xuất hiện trên bìa sách không nhất thiết minh chứng rằng ông là “tác giả”
duy nhất của nó và ngay cả là người biên tập chính. Chúng tôi nghĩ rằng đây là
lối mang trách nhiệm mà linh mục Rhodes đã thực hiện, chứ không phải là nêu lên
tư cách tác giả văn chương theo nghĩa chính xác như chúng ta hiểu; những vị có
thể làm điều nầy y như cương vị của ông, hoặc có thể cùng làm việc nầy với ông,
thì lại ở xa mút tại một nơi khác. Còn cuốn giáo lý, có lẽ phải dành tư thế
tác giả cho ông trong việc biên tập dứt điểm bản văn được in ra, và chắc chắn hơn
nữa là bản văn latinh, được ông minh nhiên nói đến. Nhưng cũng chính Rhodes đã
ghi rằng, trong trường hợp nầy đây là “phương pháp mà chúng tôi đã dùng để
trình bày các mầu nhiệm của chúng ta cho người ngoại quốc”.96 Như thế rõ rệt nó được định vị trong một công
trình tập thể.
Chúng tôi giải thích từ ngữ “phương pháp” như hàm ngụ các
tài liệu được viết ra. Thật thế, một bản văn của tu sĩ dòng Tên Metello Saccano
chứng thực rằng các bản văn dạy giáo lý, ít nhất giống như bản của Rhodes, vừa được
viết bằng chữ theo vần latinh và vừa được viết bằng chữ “nôm” đã hiện hữu rồi.
Và bản văn của tu sĩ nầy được viết ra ngay trước khi cuốn Catechismus xuất
bản: ”... cuốn Giáo lý của chúng tôi được viết ra nhằm truyền đạt cho dân chúng
nơi ấy, trong đó các mầu nhiệm của chúng ta được trình bày rõ rệt, và những mộng
tưởng của các tà phái của họ bị thực sự đánh bạt; toàn tác phẩm chia ra làm tám
bài giảng cho chừng đó ngày”.97 Nhà truyền
giáo Rhodes dường như có được một bản viết bằng chữ quốc ngữ để sử dụng cho
mình, và một bản bằng chữ nôm khác mà người Việt Nam sử dụng.
Còn đối với những gì liên quan đến cuốn từ điển, thì cũng
cần có một nhận định tương tự. Trong lời tựa nói với độc giả, cha Rhodes nói rõ
rằng ngài đã thực hiện dựa trên căn bản của một cuốn từ điển Việt-Bồ do linh mục
Gaspar do Amaral soạn. Nếu người ta không bao giờ tìm ra được các bản văn viết
tay của hai tác phẩm có trước, theo ý chúng tôi thì chỉ vì cuốn từ điển được in
ra của Rhodes đã hoàn toàn lấy lại phần cơ bản, nên hai cuốn ấy được xem là không
cần phải lưu giữ làm gì.
Hẳn nhiên những kỳ công sắp xếp của linh mục Avignon nầy đáng
được ca ngợi, ông là người duy nhất đã hoàn tất công trình xuất bản ấy, mặc dầu
phải gặp bao khó khăn mà ta có thể tưởng tượng được. Các vị đi trước ông, chết
sớm, đã không thể làm được việc ấy.
Người Việt Nam dùng kỹ thuật in theo bản khắc trên gỗ để
in chữ nôm. Sở truyền giáo dòng Tên ít nhất đã dùng kỹ thuật in nầy ở Đàng Ngoài,
trong thời kỳ tương đối họ có được tự do.98 Nhưng kỹ thuật nầy không áp dụng cho mẫu tự
latinh, và nhất là trong một lãnh vực tế nhị như vậy sự tự do của các nhà truyền
giáo rất hạn chế.
Tỉnh dòng Tên Nhật bản đã từng sử dụng một máy in chữ rời
ở Macao, rồi đem qua Nhật bản và lại đem về Macao giữa các năm 1588 và 1620.99 Không hiểu vì lý do gì, máy in đó bị bỏ đi hay
bán cho ai đó tại Manila, nên chữ quốc ngữ lại không có dịp in tại đây, như đã
từng in chữ Nhật (vần latinh và chữ hiragana). Chỉ còn có cách là phải in chữ
quốc ngữ tại Lisbonne. Nhưng vào thời nầy, công việc đó rất tế nhị, kéo dài và
tốn kém. Một vị trong pháp đình Bồ đào nha đương thời đã viết: “(Pháp đình thời
Trung cổ) luôn cảnh giác nhằm truy lùng các tà thuyết thật rốt ráo; và việc đó
luôn xảy ra như thế tại vương quốc [Bồ đào nha], ở đấy các bản chép phải bị xem
lại luôn và phải do nhiều giám sát viên duyệt một cách gắt gao, đó là một trong
những lý do tại sao ít sách được xuất bản tại đây...”100
Linh mục Rhodes đã thêm vào một bản dịch La ngữ cho phần
Việt-Bồ, nơi cuốn từ điển cũng như trong cuốn giáo lý. Ông đã thay thế bản từ vựng
Bồ-Việt bằng một bản danh mục La-Việt ngắn, có lẽ là do công trình riêng của ông.
Ngoài ra, cuốn từ điển còn cho vào một bản mô tả ngắn về ngữ học và văn phạm tiếng
Việt: khi nghiên cứu bản văn nầy, đối chiếu với một bản khác nhưng tương tự hiện
nay, chúng tôi thấy có chứng cớ về một nguồn gốc Bồ Đào Nha chung đi trước, nguồn
tài liệu nầy cũng đã mất vì việc xuất bản tác phẩm được in cho thấy nó không còn
nữa.
Chỉ có việc xuất bản và phân tích có phương pháp các nguồn
tài liệu mới cho phép ta xác minh, hoặc phê bác giả thiết nầy cũng như các kết
luận tạm thời khác đã từng nêu lên về sự khai sinh ra chữ quốc ngữ. Phần chúng
tôi, chúng tôi đã nỗ lực chứng minh101 rằng ngữ
âm Bồ Đào Nha đã được dùng một cách ưu tiên so với các loại ngữ âm khác với một
sự thành công rõ rệt vào thế kỷ XVII để làm phương tiện phân tích cho ngữ âm Việt
Nam trong khuôn khổ sáng chế ra hệ thống mẫu tự mới. Chính các nhà văn phạm người
Bồ Đào Nha đã cống hiến phần thiết yếu về các khái niệm căn bản, và các công
trình nghiên cứu tiếng Nhật Bản của các tu sĩ dòng Tên Bồ Đào Nha khác đã đem lại
phương pháp. Không biết đến các sự kiện nầy, thì dễ đi đến việc mò mẫm vô ích.
Những nghiên cứu giá trị hơn cả về lịch sử tiếng Việt và việc phiên âm tiếng đó
qua mẫu tự latinh, đặc biệt là các nghiên cứu của André - Georges Haudricourt102, Kenneth
Gregerson103 hoặc Hoàng Thị Châu104, mà chúng tôi học hỏi được rất nhiều,
đã chỉ có thể hé nhận ra một cách còn lờ mờ về vai trò đặc biệt nầy của người Bồ
Đào Nha trong việc sáng chế ra chữ quốc ngữ. Đối với các nhà ngữ học, đây là một
dự án còn phải tiếp tục truy cứu; theo chúng tôi tiến trình nầy đòi hỏi một sự
hợp tác đa phương, giữa những nhà chuyên môn người Bồ Đào Nha cũng như người Việt
Nam.
6. Từ Francisco de Pina đến
đệ tam thiên niên:
một lối viết bằng mẫu tự latinh dùng để làm
gì?
Trái ngược với một lối suy nghĩ theo thành kiến, phương
tiện chuyển đạt dùng cho việc truyền bá Kitô giáo, được các tu sĩ dòng Tên dưới
sự bảo trợ của Bồ Đào Nha sử dụng khi tiếp cận với người Việt Nam, không phải là
chữ viết theo mẫu tự latinh. Về điểm nầy, người Âu châu cũng bị lầm do sự xuất
hiện của cuốn giáo lý và cuốn từ điển. Những nhà truyền giáo tại chỗ đã chọn chữ
nôm, nghĩa là một loại chữ Việt Nam cổ xưa dựa theo chữ Hán.105 Chữ nôm có điểm lợi là tương đối được giới ưu
tú của xã hội Việt Nam biết đến - tức là các người có học - nhưng bất tiện là đa
số các nhà truyền giáo lại không đọc nổi. Và sự cân nhắc trong quyết định của họ
là làm sao tránh việc đẩy cộng đồng Kitô giáo vừa mới được khai sinh đi ra khỏi
gốc rễ truyền thống của Việt Nam trong bối cảnh của một nền văn hóa có nét
Trung Hoa nầy; hơn nữa nếu làm như thế, thì còn hoàn toàn đi ngược lại những
nguyên tắc và phương pháp của các tu sĩ dòng Tên Bồ Đào Nha.
Văn hóa Việt Nam có hai nguồn gốc chính liên hệ hổ tương
cho nhau: một phần là các truyền thống của các sắc dân địa phương và nền tảng của
tiếng nói Việt Nam, không thuộc vào nhóm Trung hoa; một phần khác là văn hóa
Trung hoa, tồn trữ và lưu hành nơi ngôn ngữ của nó qua chữ viết và qua nhiều
hình thái vay mượn khác nhau. Chữ nôm có một vị trí đặc biệt trong bối cảnh nầy
như bản lề giữa hai cánh cửa. Những chữ viết lấy từ chữ viết Trung hoa (hán tự)
và tạo được uy thế nhờ nguồn gốc nầy; nhưng chúng lại đọc thành tiếng Việt với
một nghĩa đặc biệt của tiếng Việt ấy; nên chúng đúng là một quốc tự, nghĩa là
chữ viết quốc gia. Những chữ viết “nôm” lại có thể trực tiếp mượn các nguồn chữ
hán một cách thoải mái, nên mãi phát triển rộng và sâu. Chữ quốc ngữ không bao
giờ có được sức tác dụng có tính cách tượng trưng đó.
Vấn đề chữ viết Việt Nam có vẻ rối rắm vì nhiều tác giả
tây phương lẫn lộn vấn đề tiếng nói và chữ viết.106 Thật thế, các tu sĩ dòng Tên buộc phải chọn lựa
giữa hai thứ tiếng nói: thay vì Trung hoa (là tiếng chính thức, tiếng dùng giáo
dục và lớp người có học), thì họ thích tiếng Việt Nam (tiếng nói của dân chúng).
Trong những hoàn cảnh hạn chế như đã nêu, họ cũng áp dụng chữ viết truyền thống
(chữ nôm) của tiếng nói dân gian ấy; đồng thời họ sáng tác ra một vần latinh áp
dụng vào tiếng nói nầy (tức là chữ quốc ngữ) để dùng riêng trong công việc của
họ. Việc sử dụng tiếng hán nhiều hay ít trong ngôn ngữ Việt Nam không liên quan
gì đến chữ viết. Nhưng cần xác định thêm rằng đường lối sử dụng ngôn ngữ như thế
là chính sách chung của các nhà truyền giáo; không có gì cho phép ta nêu lên rằng
trong lãnh vực nầy, Alexandre de Rhodes có một lập trường độc đáo cả.
Nhưng dẫu sao, chúng tôi phải nêu lên rằng lối phê
bình của ông Lê Thành Khôi, một nhà viết sử Việt Nam, về việc nầy là lầm lẫn, ông
ấy viết: “Sáng chế (chữ quốc ngữ) trước hết phát sinh do một mục đích truyền đạo.
Thật vậy, trở ngại lớn cho việc truyền đạo Kitô phát xuất từ khung cảnh giáo dục
phổ quát của Khổng học. Để đi vào tâm thức quần chúng, các nhà truyền giáo phải
chống lại văn hóa Trung hoa và chữ viết tiêu biểu cho nền văn hóa đó. Họ cố
trao cho dân chúng phương tiện để quẳng bỏ chữ viết đang thịnh hành, và họ đã đạt
được ý định khi bày ra hệ thống chuyển âm tiếng Việt nhờ mẫu tự latinh, kèm
theo những âm tiêu để có được những dấu thăng trầm khác nhau. Các người trở lại
đạo dùng chữ viết quốc ngữ không còn đọc tiếng hán nữa; tiếng hán nầy lại được
dùng trong các văn kiện nhà nước và phần lớn sinh hoạt văn chương. Ta thấy đó là
tầm mức chính trị của sự kiện, đã làm cho người công giáo Việt Nam trở thành một
nhóm riêng trong cộng đồng quốc gia trong một thời gian dài.”107 Một lối phê bình như thế phản ảnh một sự quên
lảng gia trọng (bên cạnh nhiều yếu tố khác nữa) về nỗ lực văn hóa rất tích cực
do chính những vị tu sĩ dòng Tên nầy của đoàn truyền giáo của Trung hoa, trong đường
hướng của Matteo Ricci (+ 1610). Lối phê bình đó không đứng vững trước những sự
kiện, đặc biệt là khối lượng sáng tác và phát hành của văn chương kytô giáo bằng
chữ nôm, khởi đầu ngay từ các thời đầu tiên của công việc truyền giáo. Khi nhà
truyền giáo Jerónimo Mayorica qua đời năm 1659, bề trên đã viết một loại điếu văn
và nhắc đến ” thư viện phong phú gồm 48 bộ sách mà ngài đã viết hoặc dịch ra tiếng
nói và ra chữ viết của xứ ấy”108 . Và mãi
cho đến ngay giữa thế kỷ 20, dưới chế độ thực dân Pháp, các nhà xuất bản công
giáo Việt Nam vẫn phổ biến cho kytô hữu nhiều sách bằng chữ nôm và chữ hán.109
Ngoài ra, trong giai đoạn đầu, rất ít kitô hữu hiểu được
lối chữ Việt theo vần latinh mà các vị thừa sai có thể chỉ cho họ, vì chữ viết
nầy hoàn toàn xa lạ. Như thế, tại sao lúc bấy giờ Francisco de Pina và các người
kế tiếp ông lại phí nhiều công sức và tài trí để sáng tác rồi hoàn chỉnh lối viết
theo mẫu tự latinh, tức là chữ quốc ngữ ấy? Sự kiện đã xảy ra vì chữ quốc ngữ có
mục đích trước hết là để dạy cho các nhà truyền giáo và giúp họ sử dụng. Nó cống
hiến cho các vị nầy một bước trung gian rất thuận lợi để tiếp cận với lối nói của
người Việt; ngoài ra, nó còn đem lại một phương tiện trao đổi về mặt học hỏi và
giao tiếp bằng chữ viết với những người Việt lãnh đạo chính yếu của cộng đoàn,
mà người ta buộc phải học lối viết mới nầy trong mục đích hạn chế đó.110 Tình trạng phổ biến rất hạn chế của chữ quốc
ngữ như thế, sẽ biến đổi một cách chậm chạp vào giữa thế kỷ XVIII. Chỉ đến lúc
nầy, chữ viết theo mẫu tự latinh mới bắt đầu lan tràn rộng rãi hơn trong cộng đồng
người Kitô giáo; đây là vì những lý do an ninh trước một chế độ cấm đạo111 và cũng có thể vì việc sử dụng rất tiện lợi.
Viễn tượng mới đó kéo theo hậu quả không thể tránh khỏi
đó là sự tiến hóa dần dần chữ quốc ngữ. Mục đích chính lúc đầu đòi hỏi phải ưu
tiên cho khía cạnh thuần túy ngữ âm, nghĩa là cho việc mô tả cách phát âm, nhằm
giúp cho người ngoại quốc mới bắt đầu học đọc tiếng Việt cho thật đúng. Khi việc
sử dụng lối viết nầy được phổ biến hơn nơi những người nói tiếng Việt như tiếng
mẹ đẻ, thì người ta lại ưu tiên khía cạnh âm vị học,112 thiết thực cho họ hơn.
Trong khuôn khổ của bản văn nầy, chúng tôi xin chỉ nêu
lên một thí dụ. Trong lối viết quốc ngữ, mà cuốn từ điển của Alexandre de
Rhodes cho ta thấy, các phụ âm mũi cuối mặt lưỡi- vòm trước (consonnes nasales
finales dorso-prépalatale), mặt lưỡi - vòm mềm (dorso-vélaire) và môi-vòm mềm(labio-vélaire)
được diễn tả bằng ba lối chép thành chữ khác nhau, như sau: <nh> (chẳng hạn
<lành>); <ng> (chẳng
hạn <làng>), và một dấu gọi là dấu apex, lấy từ dấu til
(tilde) chữ viết Bồ đào nha <~> , đặt ở trên đầu chữ nguyên âm (chẳng
hạn <làõ>, ngày nay viết là <lòng>). Những lối ghi chép
đánh dấu đó phản ảnh cách đọc chuẩn của vùng Hà nội, đúng như một người Bồ đào
nha cố nghe và phân tích được dựa vào hệ thống ghi chép mà người ấy quen thuộc.
Trong lối viết nơi cuốn từ điển của Pigneau de Béhaine và Taberd (xem chú thích
số 114), hai mẫu phụ âm sau cùng nêu lên trên đây lại cho chép y như nhau là
“ng”, bởi lẽ chúng không đối chọi gì nhau, sự xuất lộ của chúng lệ thuộc vào
nguyên âm đi trước. Việc phân biệt hai mẫu phụ âm nầy đối với một người gốc Việt
Nam là việc thừa. Người ta hầu như đã đơn giản hóa đến mức tối đa khi chung lộn
hai ký hiệu “nh” và “ng”: trong hệ thống tiếng Việt, không cần đến sự phân biệt
nầy nếu lưu ý đến các nguyên âm /a/ và /œ/113
Cần lưu ý rằng đây không hề có việc sửa chữa những sai
lầm có thể có về việc ghi chép, nhưng nhằm đơn giản hóa các luật của nó.114 Nhưng thực sự thì đổi thay không nhiều lắm, nên
ngày nay chỉ cần học vài phút thì độc giả Việt Nam có thể đi vào toàn bộ các bản
văn bằng quốc ngữ viết vào thế kỷ XVII.
Vì chữ nôm và chữ hán cũng rất khó học đối với giới
cai trị của Pháp, không kém gì trường hợp của các vị truyền giáo trước đây, nên
chế độ thực dân đã tha thiết ngay với lối chữ viết theo mẫu tự latinh nầy; sau
nầy họ đã cho nó một qui chế chính thức, buộc phải sử dụng trong tất cả các dịch
vụ hành chánh.115 Và như vậy, vào đầu thế kỷ XX, chữ viết theo
mẫu tự latinh do người Bồ Đào Nha gợi ra trước đây bắt đầu lan tràn ra ngoài cộng
đồng Kitô giáo. Nho sĩ yêu nước trong xứ, rất đông, cương quyết chống lại sự mới
mẻ nầy, nại lý do bảo vệ truyền thống và bản chất Việt Nam. Nhưng dần dần, vì
nhận thấy hiệu năng thiết thực của nó, họ lại cố học chữ viết lối mới và sử dụng.116 Sự thành công của chữ quốc ngữ không phải là
kết quả của sự áp đặt do luật lệ của bạo quyền. Ai cũng thấy kháng cự chống lại
chữ viết mới mẻ nầy chẳng lợi ích gì; tương lai xã hội lại đòi hỏi phải canh tân
cơ chế xã hội và đẩy mạnh giáo dục quần chúng. Dường như sau những thất bại của
các phong trào yêu nước vào năm 1930, những đối kháng về chữ quốc ngữ không còn
nữa; giới ưu tú lãnh đạo đã rút tỉa bài học qua các biến cố đau thương nầy. Vậy
mà chữ nôm từ lâu chỉ dành cho một thiểu số nho sĩ, giới nho quan truyền thống.
Chỉ có chữ quốc ngữ mới cống hiến được phương tiện kiến hiệu nhằm thoát ra khỏi
tình trạng nầy và cổ võ cho lý tưởng thoáng hé lộ.117
Những xác tín như thế trở thành phổ biến khi nhìn về một
Việt Nam thời hậu thực dân. Và chữ nôm bị xóa dần đi đến độ biến mất hẳn; chữ
viết của các nhà truyền giáo trước đây và của người Pháp nay trở thành chữ viết
duy nhất của tất cả người Việt Nam: “quốc ngữ”. Mọi người dùng chữ quốc ngữ, và
chữ viết đó đã chứng thực rằng nó có thể áp dụng một cách dễ dàng và hữu hiệu để
đi vào tất cả các lãnh vực của kiến thức.118
Ngoài ra, chính chữ quốc ngữ đã cống hiến nhiều hơn cả trong việc bảo tồn
sự thống nhất ngôn ngữ, ngay cả trong cuộc chiến gay gắt giữa đôi bên: nó đẩy
lui được các khuynh hướng chủ trương phân cách, một cách hữu hiệu hơn điều người
ta có thể mong ước thực hiện hoặc nơi một lối chữ viết áp dụng âm vị học một cách
rốt ráo do một số người chủ trương.119
Làm sao quên được công trình vĩ đại mà các vị tiên
phong của công cuộc truyền giáo tại Việt Nam đã thực hiện? Những điều mà các vị
truyền giáo dòng Tên đến từ Bồ Đào Nha, do Bồ Đào Nha gửi đi, đã thực hiện
trong phạm vị ngữ học kỳ cùng là những công trình có tính cách quyết định cho tương
lai văn hóa Việt Nam đến độ ngày nay tương lai đó không thể quan niệm được nếu
không có chữ viết theo mẫu tự latinh. Tấm bia tưởng niệm đã được dựng lên lại vào
cuối năm 1995 ở thư viện quốc gia tại Hà Nội, và chỉ tôn vinh một mình
Alexandre de Rhodes; đó là một dấu hiệu cho thấy sự đóng góp văn hóa đặc biệt của
người Bồ Đào Nha còn bị quên lảng, ngay cả trong giới khoa học. Nhưng người ta
cũng thấy nơi tấm bia kỷ niệm đó một dấu chỉ chờ đợi, một mấu móc đầu tiên nhằm
nối lại cuộc đối thoại văn hóa với Tây phương về quá khứ chung và về tương lai.
Trong khuôn khổ đó, nước Pháp và các nước nói tiếng Pháp chắc chắn có đóng một
vai trò; nhưng thật đáng tiếc là các nước nầy đã không hợp tác với các quốc gia
tây phương khác nữa để cùng thực hiện cuộc đối thoại nêu trên, vì kinh nghiệm về
Á châu của họ xa xưa hơn, và họ lại không có nhược điểm của một quá khứ thực dân
còn gây ấn tượng đau thương nơi ý thức quốc gia của người Việt Nam.
___________________
Chú Thích
1. (a) Dictionnarium annamiticum, lusitanum et
latinum, Roma, S.C. de Propaganda Fide, 1651; tái bản bằng bản chụp với phần
phiên dịch việt ngữ hiện hành: Từ Điển Annam-Lusitan-Latinh, TP Hồ Chí
Minh, Nhà xb. Khoa Học Xã Hội, 1991.
(b) Catechismus
pro ijs, qui volunt suscipere Baptismum, in octo dies divisus. Phép Giảng Tám
Ngày..., Roma, S.C. de Propaganda Fide, [1651]; tái bản bằng bản chụp với phần
dẫn nhập của Nguyễn Khắc Xuyên, phiên dịch việt ngữ hiện hành do André
MARILLIER và pháp ngữ do Henri CHAPPOULIE, [TP Hồ Chí Minh], Tủ sách Đại Kết,
1993.
2. Jean- Louis TABERD: Dictionnarium Annamitico- Latinum, Serampore
(Ấn Độ), 1838.
3. Sắc luật đưa chữ quốc ngữ vào các kỳ thi do toàn quyền Paul Doumer ký từ
năm 1898; nhưng được áp dụng dứt khoát vào năm 1909. Năm 1917, một chỉ dụ của
triều đình bãi bỏ lối giáo dục truyền thống và thay bằng một nền giáo dục dựa vào
chữ quốc ngữ và pháp ngữ. Xem Nguyễn Thị Chân Quỳnh, “Concours de mandarins”,
trong La Jaune et la rouge [Paris, école Polytechnique], số 525,
5.1997(tr. 31-37), tr.36-
4. Georges TABOULET, La geste française en Indochine: Histoire par les
textes de la présence de la France en Indochine des orgines à 1914,
2 tập, Paris, Adrien Maisonneuve, 1955-1956: tập I, quyển I, chương I, trang
9-22.
5. Cha của Rhodes người Marranne Aragon và mẹ người Ý; trong gia đình có lẽ
Rhodes đã sử dụng tiếng Tây Ban Nha, Ý và ngay cả tiếng Do thái (!)... Về các xác
quyết bấp bênh nầy, xem lời minh xác lại của Michel BARNOUIN: "gốc gác cha
mẹ của Alexandre de Rhodes người Vaucluse (1593-1660)" trong Mémoires
de l’ Académie de Vaucluse [Avignon], 8e série, 4, 1995, trang 9-40; và thư
mục đã dẫn.
6. Trong thời gian chúng tôi viết bài nầy, xác quyết đó một lần nữa được
François RIDEAU lặp lại, ịMes rapports avec la langue vietnamienneỐ, trong La
jaune et la rouge [Paris, école Polytechnique], số 525, 5. 1997, trang 25-30:
trang 27.
7. Chúng ta sẽ trở lại trong đoạn
sau về việc có một số tu sĩ dòng Phanxicô người Tây ban nha bị lạc vào bờ biển
của Việt Nam từ 1583-1584, nhưng không lưu lại dấu vết nào và cũng không hề học
được những khái niệm về ngôn ngữ địa phương.
8. André Georges HAUDRICOURT, "Origine des particularités de l’
alphabet vietnamien", trong tập san Dân Việt Nam (Trường Viễn Đông
Bác Cổ [EFEO] 3, 1949, tr. 61-68. Ngoài ra, Haudricourt là tác giả các bài biên
khảo về tiếng Việt và lịch sử tiếng nầy; trong số đó có bài "Les consonnes
préglottalisées en Indochine"Á, trong Bulletin de la Société de
Linguistique de Paris 46, 1950, tr. 172-182; "ÏLes voyelles brèves du
vietnamien"Á, tlđd. 48, 1952, tr.90-93; "La place du
vietnamien dans les langues austroasiatiques", tlđd. 49, 1953, tr.
122-128; "De l’ origine des tons du vietnamien"Á, trong Journal
Asiatique 242, 1954, tr. 69-83; v.v...
9. Alexandre de Rhodes, Divers
voyages et missions du P. Alexandre de Rhodes en la Chine, & autres
Royaumes de l’ Orient, Paris, Sébastien Mabre-Cramoisy et Gabriel Cramoisy,
1653; tái bản bằng bản chụp với phần dịch chuyển dịch Việt ngữ của Hồng Nhuệ [bút
hiệu của Nguyễn Khắc Xuyên], TP Hồ Chí Minh, Tủ sách Đại Kết, 1994; phần 3, tr.
78-79.
10. Xem John DE FRANCIS, Colonialism
and Language Policy, La Haye, 1997. Cũng xem chú thích 71.
11. Vào năm 1941, tấm bia được dựng
trong một đền thờ nhỏ trên bờ hồ Hoàn Kiếm, trước đền Ngọc Sơn. Nhà thờ nhỏ đó
bị đập phá để có chỗ xây một đền đài cách mạng. Tấm bia bấy giờ do một tư nhân đem
về nhà sử dụng tùy nghi. Năm 1995, người ta không thể đặt lại chỗ cũ, nên đã chọn
một chỗ xứng đáng đó là Thư viện Quốc gia, cách đền thờ cũ không xa.
12. Xem "Let’s do Justice to
Alexandre de Rhodes", trong Vietnam Social Sciences (Hà Nội) 40,
2/1994, tr. 88- 89, trong một bài viết của MINH Hiền đăng trên tuần san Lao Động
(Hà Nội) ngày 21.11.1993. Cũng xem cuộc hội thảo khoa học tổ chức về Alexandre
de Rhodes tại Hà Nội, ngày 22.12.1995 do Bộ Văn Hóa và Trung Tâm Quốc Gia Khoa
Học Xã Hội và Nhân Văn (tài liệu sẽ xuất bản). Trong cuộc hội thảo nầy, phó thủ
tướng Nguyễn Khánh, một trong những nhân vật cao cấp của nhà nước đã chính thức
lên tiếng về đường lối muốn phục hồi danh dự cho cha Rhodes. Đây là nguyên văn
lời nói đó: “Alexandre de Rhodes, nhà hoạt động văn hóa cống hiến cho sự phát
triển quốc ngữ và văn hóa Việt Nam” - trong Xưa và Nay (Hà Nội), [cơ
quan ngôn luận của Hội Khoa Học Lịch Sử Việt Nam], 1/1995, tr. 19-20.
13. Chúng tôi nêu lên ý kiến nầy qua
hai tác phẩm có giá trị khoa học cao, trong số các tài liệu xuất bản gần đây:
- (1). Pierre-Richard Féray,
Le Việt Nam, Paris P.U.F., 1984, về những ảnh hưởng văn hóa Âu châu vào thế
kỷ 17, trang 18: "Trong lúc nhà Trịnh (Đàng Ngoài) kêu cứu viện trợ của người
Hòa Lan [...], thì nhà Nguyễn lại cầu cứu người Bồ đào nha, rồi đến người Pháp,
và không ngại tiếp rước các nhà truyền giáo dòng Tên đến độ cha Alexandre de
Rhodes, từ năm 1650 đến 1660, đã có ý kiến chuyển chữ viết bằng vần latinh. Chữ
quốc ngữ như thế được khai sinh".
-(2) Josef METZLER, Die
Synoden in Indochina: 1625-1934, [các hội nghị giám mục ở Đông dương 1625-
1934], Paderborn / Munich / Vienne / Zurich, Ferdinand Schưningh, 1984. Nối tiếp
phần lớn các sử gia đi trước về các cuộc truyền giáo của Công giáo, tác giả gán
cho Rhodes phần chính yếu của nỗ lực truyền giáo nầy; sau đó tác giả nói rõ ở
trang 7: "Qua những công trình nghiên cứu khoa học của ông, [Rhodes] trở
thành người khai sinh ra chữ viết của Việt Nam và chuyển qua mẫu tự latinh, được
sử dụng đến hôm nay".
14. Về vấn đề bảo trợ của vua Bồ đào
nha đối với công cuộc truyền giáo Đông phương, đặc biệt nên đọc: António DA
SILVA REGO, Le Patronage portugais de l’ Orient, aperçu historique, Lisbonne, Agência Geral do
Ultramar, 1957; Alelhelm JANN, Die katholischen Missionen in Indien, China
und Japan: Ihre Organisation und das portugiesische Patronat, vom 15. bis
ins 18. Jahrhundert [Các cuộc truyền giáo công giáo tại ấn độ, Trung Hoa và Nhật
Bản. Công việc tổ chức và sự bảo trợ của Bồ đào nha từ thế kỷ XV đến thế kỷ
XVIII], Paderborn, Ferdinand Schưningh, 1915.
15. Trong hậu bán thế kỷ thứ XVI, Tây
ban nha dần hồi đến và định cư lâu dài tại Phi luật tân. Nhưng những mưu toan của
người Tây ban nha nhằm nối một đầu cầu với lục địa Á châu, đặc biệt tại Đông dương,
sẽ không có kết quả nào. Về các nổ lực nầy, ngoài các tài liệu khác nên đọc
L.P. BRIGGS, "Missionnaires Portugais et Espagnols au Cambodge,
1555-1603" trong Bulletin de la Société des études Indochinoises
25, 1950; A. GALLEGO, "Espanõa en Indochina, Expediciones
religioso-militares" trong Espanõa misionera, 7, 1951, tr. 298 -
310; Benno BIERMANN, "Die Missionsversuche der Dominikaner in
Kambodscha" [Những nỗ lực truyền giáo của các tu sĩ dòng Đaminh tại Cam Bốt];
trong Zeitschrift für Missionswissenschaft und Religionswissenschaft [Tập
San những khoa học truyền giáo và tôn giáo (Mơnster) 23, 1933, tr. 108-132.
16. Thời điểm Afonso de Albuquerque
chiếm Malacca. Xem Genevière BOUCHON, Albuquerque: Le lion des mers d’ Asie,
Paris, Desjonquères, 1992. Việc chiếm Malacca một mặt giúp người Bồ đào nha
mở rộng con đường hàng hải đến các đảo sản xuất gia vị ở vùng biển Nam Thái
bình dương, mặt khác mở đường đến Trung Hoa và Nhật Bản.
17. Nên đọc Pierre-Yves MANGUIN,
Les Portugais sur les côtes du Viêt-nam et du Campa, étude sur les routes
maritimes et les relations commerciales, d’ après les sources portugaises des
XVIe, XVIIe, XVIIIe siècles, Paris, EFEO, 1972; Roderich PTAK (ed.), Portuguese
Asia: Aspects in History and Economic History (16th-17th centuries),
Stuttgart, F. Steiner, 1987; Anthony REID, Southeast Asia in the Age of
Commerce (1450-1680), vol.I, The Lands below the Winds, New Haven et
Londres, Yale University Press, 1988. Đáng lưu ý là trong DéCADA XIII, nói đến
thời kỳ từ 1612 đến 1617 vào lúc các tu sĩ dòng Tên mở đường truyền giáo đến Việt
Nam, nhà chép sử biên niên chính thức người Bồ đào nha António BOCARRO chỉ nói
thoáng một lần về xứ nầy; và cũng chỉ nói gián tiếp, nhân nói đến nước Xiêm, như
là miền sản xuất ra lụa, do người Anh và Hòa lan du nhập vào xứ nầy. Xem Decada
XIII da Historia da India composta por Antonio Bocarro chronista d’ aquelle
estadto [...]. xb. do Rodrigo José De Lima Felner, 2 tập, Libonne, Academia
Real das Sciencias, 1876: tập 1, tr. 530.
18. Cha dòng Tên Francisco de Jasu y
Javier [Xavier], 1506-1552, gốc người Navarre, đã thực hiện công cuộc truyền giáo
của mình tại Á châu với tư cách vừa là sứ thần của Giáo hoàng vừa là khâm sứ của
vua Bồ đào nha. Xem Georg SCHURHAMMER,
Franz Xaver, Sein Leben und seine Zeit, 3 quyển, Fribourg-en- Brisgau,
Herder, 1955-1971: Francis Xavier: His life, his time, 4 tập, Roma,
Institutum Historicum Societatis Iesu, 1973-1982. Tiếng Pháp có: Alexandre
BROU, S. François-Xavier, 2 tập, Paris, Beauchesne, 1922; hoặc gần đây hơn:
James Brodrick, Saint François-Xavier (1506-1552), Paris, Spes,
[1954], bản dịch của: Saint François-Xavier, Londres, Burns Oates,
[1952]. Về qui chế pháp lý của Phanxicô Xavie, xem Joseph WICKI, "Der hl.
Franz Xaver als Nuntius Apostolicus", trong Studia Missionalia 3, 1947,
tr. 107-130.
19. Kế hoạch
truyền giáo nầy có lúc người ta cho là do Alexandro Valignano, người tổ chức các
công cuộc truyền giáo dòng Tên tại Viễn Đông (sinh năm 1537 tại Chieti, Vaignano
làm Tuần thị các vùng truyền giáo dòng Tên ở Đông phương từ năm 1573, và từ năm
1583 làm Giám tỉnh của tỉnh dòng Ấn Độ, bấy giờ gồm cả toàn khối Viễn Đông. Ngài
chết tại Macao năm 1606). Kỳ thực quan điểm nầy phát xuất từ chính Phanxicô
Xavie. Linh mục dòng Tên người Navarre nầy từng có kinh nghiệm về ảnh hưởng của
Trung Hoa trên Nhật Bản, và những khó khăn mà người Nhật gặp phải khi bỏ những đạo
lý đến từ Trung Hoa để theo Kitô giáo. Trong một bức thư luân lưu ngày
21.01.1552, ngài viết: ” Tôi tin là trong năm 1552 nầy, tôi sẽ đi gặp vua Trung
Hoa, đây đúng là một xứ mà luật của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, có thể phát
triển lớn mạnh; và nếu ở đấy người ta tiếp nhận luật Chúa, thì việc đó sẽ giúp
cho Nhật Bản mất đi lòng tin cậy vào những giáo thuyết tôn giáo mà Nhật bản đang
tin”. Cũng vào lúc nầy, Ngài viết thư cho Inhaxiô de Loyola như sau: ” Nếu người
Nhật biết rằng người Trung Hoa nghe theo luật Thiên Chúa, thì chắc chắn họ sẽ mất
niềm tin vào những điều họ vẫn giữ trong các giáo thuyết của họ”. (Epistolae
S. Francisci Xaverii aliaque eius scripa [...], Georg SCHURHAMMER et Joseph
WICKI ed., t. II (1549-1552), Roma, Monumenta historica Societatis Jesu, 1945:
tr. 227 và tr. 291-292).
Gần ba mươi năm
sau, mặc dù gặp phải những thất bại và ngỡ ngàng ở Trung Hoa, quan điểm nầy vẫn
xem là có giá trị. Thí dụ như trong bức thư của tu sĩ dòng Phanxicô Pedro de Álfaro
gởi cho bạn cùng dòng là Agustín de Tordesillas, viết từ Macao ngày 20.11.1579,
vị nầy viết: “[Cha Coutinho, bề trên các cha dòng Tên của Macao] có nói rằng Đông
dương không truyền giáo được ngay bây giờ và cũng không quan trọng như chúng ta
tưởng [...]. Ngài nhân danh Chúa mà đưa ra ý kiến đó, cũng như ý kiến của Đức
Cha [Belchior Carnerio, Giám quản của địa phận Macao], người từng rất muốn làm
cho người ta trở lại, đó là trước hết phải tìm cách giảng đạo cho Đại Vương quốc
(Trung Hoa) rồi sau đó mọi sự sẽ dễ dàng...” (Sinica Franciscana, tập 2:
Relationes et epistolas Fratrum Minorum sỉculi XVI et XVII, Anastasius
VAN DEN WYNGAERT ed., Quaracchi-Florence, Collegium S. Bonaventurỉ, 1933, tr. 52 chú thích 1). Quan điểm của
Valignano có điểm khác, như hệ đến Việt Nam. Theo Ngài, mọi nỗ lực truyền giáo
của các cha dòng Tên phải tập chú vào Nhật Bản, ở đây đang thu hái nhiều thành
quả to lớn. Gửi người đi chỗ khác sẽ mất thì giờ và phân tán sức lực một cách đáng
tiếc: ” Hội dòng phải nỗ lực hết sức mình để chu toàn công việc truyền giáo ở đây,
dẫu phải bỏ qua các vùng truyền giáo khác.” (Sumario de las cosas que pertenecen a la Provincia de Jappón y al govierno
della, chương 6; xem phần dịch pháp ngữ của J. Bésineau,
Les Jésuites au Japon: relation missionnaire [1583], [Paris], Desclée De
Brouwer [1990], tr.113). Khi Nhật bản gặp phải các cuộc bắt bớ, thì nơi thay thế
duy nhất mà công cuộc truyền giáo Hội dòng nhắm đến đó là Trung Hoa, và ngài gửi
Ruggieri và Ricci đến đây. Trong ý ngài, các dòng khác tự do đi các vùng đất mà
các cha dòng Tên không có mặt (tlđd. chương 9, tr. 133). Nhưng các tu sĩ dòng Augustinô, Đaminh và Phanxicô lại cũng
thích chọn Trung Hoa và Nhật bản...
20. Thư đề ngày 29.11.1555 viết từ
Malacca, gửi đến viện trưởng Collège St. Paul ở Goa: bản dịch pháp ngữ của
Pierre-Yves MANGUIN, Les Portugais sur les côtes du Viêt-Nam et du Campa (trích
chú thích 17), tr.48-49. Từ ngữ "padrão" tiếng Bồ đào nha có nghĩa là
một bia đá mang huy hiệu của Bồ đào nha, đánh dấu việc chiếm hữu một cách tượng
trưng nhân danh triều đình Bồ đào nha. Việc chọn lựa đặt padrão trên đảo Cù lao
Chàm thay vì ở trên đất liền có thể để nhấn mạnh đến khía cạnh thuần tượng trưng
của sự việc. Năm 1524, người Bồ đào nha đã đau đớn ý thức rằng không có vấn đề
nhường lại quyền lãnh chúa thực sự của mình cho bất kỳ ai trong vùng biển Trung
Hoa, ngược lại việc họ đã làm trong vùng Ấn độ dương đến Malacca. Xem Henri CORDIER,
"Người Bồ đào nha đến Trung Hoa", trong T’ oung Pao, 12, 1911, tr.
485-543; cũng như trong phần dẫn nhập của Charles Ralph BOXER (ed.) nơi cuốn South
China in the 16th century. Being the narratives of Galeote Pereia, Fr. Ga
Martin de Rada, 1550-1575, Londres, Hakluyt Society, 1953;
Nendeln/Liechtenstein, Kraus Reprints, 1967.
21. Xem Khâm Định
Việt sử thông giám cương mục (viết vào năm 1859 dưới sự hướng dẫn của Phan
Thanh Giản, xb. năm 1884): phần chính biên, cuốn 33, bản khắc 6b; chính bản bằng
hán văn in lại trong Bulletin de la Société des études Indochinoises [BSEI],
phụ bản cuốn 45/2-3, tr. 10; bản dịch pháp ngữ có chú thích của Philippe
LANGLET trong BSEI, bộ 45/2-3, tr.102. Bản văn nói đến một người ngoại
quốc (dương nhân), đã âm thầm đi vào các vùng của lưu vực Sông Hồng. Sự kiện nầy
được ghi ở phần chú thích, dựa vào dã lịch, nhưng không nói đến tài liệu nào rõ
ràng cả. Vì quốc tịch không nói rõ, nhưng dường như đây hẵn là một người Bồ đào
nha.
22. Gaspar da Cruz, gốc người Bồ đào nha, là vị
truyền giáo dòng Đa minh đầu tiên tại Viễn đông. Xem cuốn sách của ông: Tractado
em que se cõtam muito por extẽso as cousas da China, cõ suas particularidades,
& assi do reyno dormuz. Cõpuesto por el R. padre frey Gaspar da Cruz da ordẽ
de sam Domingos [...] (Évora, André
de Burgos, 1569): tr. 162 trong bản dịch của Charles Ralph BOXER, South
China in the 16th century. Being the narratives of Galeote Pereia, Fr.
Gaspar da Cruz, Fr. Martin de Rada, 1550-1575, Londres, Hakluyt Society, 1953.
Xác quyết của một vài sử gia về các công cuộc truyền giáo liên quan đến một hoạt
động truyền giáo của G. da Cruz tại Việt Nam không có căn cứ.
23. Xem "Relación inédita de Fray Diego de
San José sobre la misión franciscana a Cochinchina y su paso por China
(1583)" trong Archivo Ibero-Americano [Madrid] 53, 1993, tr. 459-487; cũng
như phần dẫn nhập của J. Ignacio TELLCHEA IDIGORAS: "Expedición
franciscana a Cochinchina y China", ibid., tr. 449- 458.
24. Xem Marcelo DE RIBADENEYRA, Historia
de las Islas del Archipielago, y reinos de la Gran China, Tartaria,
Cochinchina, Malaca, Sian, Camboxa y Iappon, y de lo succedido en ellas a los
religiosos Descalzos, de la Orden del Seraphico Padre San Francisco, de
la Prouincia de San Gregorio de las Philippinas [...], Barcelone, Grabriel
Graells y Giraldo Dotil, 1601: chương 16. Theo bản văn xuất bản có phần phê
bình của Juan R. DE LEGíSMA, Madrid, Editorial Católica, 1947, với các chú
thích và thư mục đầy đủ được trích dẫn.
25. Xem "Relação de como os Religiosos do Serafico São Francisco
Capuchos que forão para o Reyno de Cochin- china com tensão de pregar nelle o
Santo Evangelho; e do que lhes succedeo estando là, e de como se vieram" :
Lisbonne, Biblioteca Nacional, codex 11098, fol.347-349. Vua Philippe II, từ năm
1580 trị vì hai xứ Tây ban nha và Bồ đào nha, đã từng yêu cầu người Tây ban nha
nhường chỗ cho người Bồ đào nha trên lục địa Á châu.
26. Xem "Relação de como os
Religiozos do glorioz Dor S. Agosto forã ao Reyno da Cochinchina cõ tensã de lá
pregarẽ o Sto Evango ; e de como, e por que vierã de là" Lisbonne, Arquivo
Histórico Ultramarino: codex 1659, fol. 275-276v. Cũng xem Teófilo APARICIO LÓPEZ,
La Orden de San Agustin en la India (1572-1622), Lisbonne, Centro de
Estudos Históricos Ultramarimos, không đề niên kỷ [bản xb trích lại của Studia
40, 6.1974 - 12.1978], tr. 322-327.
27. Xem l’Itinerário de Sebastião
Manrique (1639), Luis DA SILVEIRA xb. Lisonne, 1946, chương 45: ” Vì có nhiều
cuộc di dân trong vương quốc nầy, và vì Dòng của tôi không thể nào đương đầu được
với những nhu cầu của công cuộc truyền giáo nầy bởi lẽ cần dự trù nhiều tốn kém-
[Dòng] thực sự có rất ít của cải trong các vùng đó- nên không duy trì được [các
công cuộc truyền giáo ấy) và cũng sẽ không thực hiện được trừ trường hợp phải
chi dụng rất nhiều; và đấy cũng là kinh nghiệm của các linh mục dòng Tên trước đây:
Nếu cứ phải liên tục lo tặng quà và lễ vật khác nữa, không những cho vua và các
ông hoàng, mà còn cho các vị quan cao cấp; thì e cũng cần phải cứ tiếp tục như đã
từng làm trong nhiều trường hợp...)
28. Có nhiều
nghiên cứu đã phổ biến về đề tài nầy, trong đó có Joseph JENNES, A history
of the Catholic Church in Japan from ist beginnings to the early Meiji Era. A short
handbook, tái bản,Tokyo, Oriens Institute for Religious Research, 1973; Kiichi
MATSUDA. The Relations between Portugal and Japan, Lisbonne, Centro de
Estudos Históricos Ultramarimos, 1965; Charles Ralph BOXER, The Christian
century in Jpan 1549-1560, Londres, Cambridge University Press/ Berkeley,
University of California Press, 1951; tái bản. : [Londres], Carcanet, 1993. Tiếng Pháp có: Léon PAGES, Histoire de la religion chrétienne
au Japon depuis 1598 jusqu’à 1651, 2 tập, Paris 1869-1870.
29. Các nhà truyền giáo cũng dùng thành ngữ: “Đàng Trong” và “Đàng Ngoài”.
Nhưng chúng tôi sẽ dùng lối nói mà người Bồ đào nha dùng. Sau nầy chính quyền
thực dân Pháp chia Việt Nam làm ba miền Bắc phần (Tonkin), Trung phần (Annam) và
Nam phần (Cochinchine). Ở đây chúng ta không nhắc đến lối phân chia đó.
30. Cần lưu ý là bên kia eo biển Malacca (tức là vùng Thái bình dương), người
Bồ đào nha không thực hiện, cũng như không từng chủ trương chiếm đất. Trong trường
hợp ta nêu lên ở đây, chúa Nguyễn Phúc Nguyên (Chúa Sãi) đã mời họ đến lưu ngự
tại cửa sông Hàn, tức thành phố Đà Nẵng sau nầy. Nhưng, các tác giả của các dự án
nầy có hai mẫu mực định cư khác nhau trong đầu họ:
- Phía người Việt Nam, người ta
chủ trương lấy mẫu Hoài Phố - Hội An. Đây là hai mẫu định cư vào thời đó của một
nhóm người Nhật bản và một nhóm người Trung hoa. Mỗi cộng đồng tự tổ chức cuộc
sống, theo tập quán và luật lệ riêng của mình. “Người thủ lãnh” có quyền trên cộng
đồng những người đồng hương của mình, nhưng luôn thuộc quyền của quan địa phương
(quan Việt Nam). Các cộng đồng định cư nầy buôn bán, trả thuế (cao) cho chính
quyền Việt Nam. Hệ thống đó hợp với mọi người. Do vậy mà chúa (Nguyễn) tìm cách
định cư một cộng đồng người Bồ đào nha tại chỗ nầy theo cùng mẫu tổ chức như thế.
Việc làm đó còn cho phép chúa Nguyễn hy vọng được người Bồ đào nha giúp phòng
thủ, đặc biệt để đối đầu với Đàng Ngoài, kể cả với người Tây ban nha, Hòa
lan...
- Phía người Bồ đào nha thì có
mẫu của Macao. Nhiều sử gia không hiểu về thực trạng của Macao vào các thế kỷ
16 và 17; gần đây người ta đã thực hiện nhiều công trình nghiên cứu về thực trạng
nầy, kể cả trong giới các sử gia Trung hoa. Mọi người đều chân nhận rằng bấy giờ
Macao là vùng đất của Trung hoa chứ không phải của Bồ đào nha, và người Bồ đào
nha phải trả tiền rất nhiều để thuê lại đất nầy, chưa kể tiền thuế cập bến và
quan thuế. Mọi sinh hoạt của người Bồ đào nha đều đặt dưới quyền giám sát của một
vị quan đặc biệt gửi đến Macao, do các giới chức của Quảng đông. Vương quốc Bồ đào
nha chỉ có những đại diện như sau:
a/ từ 1557 một “thủ lãnh đặc
trách đi lại nước Nhật bản”, vị nầy có thẩm quyền, trong chỉ một năm, trên các
cuộc đi lại bằng đường biển, chứ không có quyền trên dân chúng;
b/ từ 1576 giám mục (hoặc thường
là một giám quản) có thẩm quyền về các vấn đề liên quan đến sinh hoạt giáo hội;
c/ và từ 1580 một thẩm phán
hoà giải, có thẩm quyền tài phán đối với người Bồ đào nha mà thôi.
Vào năm 1583, quyền hành địa phương
của cộng đồng người Bồ đào nha (l’ oligarchie portugaise) đã có “nghị viện”, với
thẩm quyền trên các vấn đề dân sự của người Bồ đào nha. Nhưng các quan lại
Trung hoa luôn canh chừng nhằm tránh tình trạng lấn quyền (chẳng hạn người Bồ đào
nha có khuynh hướng đặt người Kitô hữu Trung hoa dưới khuôn khổ các luật lệ riêng
của mình). Ở đây cũng như ở Hội An, hệ thống tổ chức như thế có lợi cho mọi người,
vì người Bồ đào nha giàu có nhanh nhờ buôn bán với Nhật bản mà không phải trả
thuế cho triều đình của nước mình. Macao chỉ có vị thống đốc (quân sự), với một
đội quân ít ỏi, kể từ năm 1623, do cuộc tấn công của người Hòa lan năm 1622, mà
dân cư tại đây đã đẩy lui một cách vất vả - Nhưng vào thời kỳ chúng ta nêu lên đây,
khía cạnh đó chưa hề được lưu ý. Mãi đến thế kỷ 19 thì Bồ đào nha mới đơn phương
tuyên bố Macao “là vùng đất của người Bồ đào nha".
Vào thời kỳ chúng ta đang nói ở đây, việc giao thương buôn bán có lợi giữa
Macao và Nhật bản trở thành khó khăn, do quyết định dần dần bế quan tỏa cảng của
Nhật đối với người Bồ đào nha. Một số người cho rằng Việt Nam có thể thay cho
vai trò Nhật bản trong việc giao thương. Nhưng trường hợp nầy lại cho thấy
Macao không thuận lợi lắm về mặt địa lý. Do đó, mà các dự án di cư - định cư của
người Bồ đào nha tại Việt Nam phát sinh; người ta mong rằng chúa Nguyễn sẽ tạo
những điều kiện thuận lợi hơn quan chức Trung hoa.
31. Xem thư của nhà vua gửi phó vương
Jerónimo de Azevedo ngày 6 tháng 2 năm 1616: Lisbonne, Archives
Nationales-Torre do Tombo, Livros das Monơões số 9, fol. 40, doc. 636;
xb. trong Raymundo Antonio DE BULHãO PATO (dir), Documentos remettidos da
India ou Livros das Monơões, tập III, Lisbonne, Academia Real das
Sciencias, 1888, tr. 381-382 - Thư của phó vương Jerónimo de Azevedo gửi nhà
vua tháng 3 năm 1617: Goa, Archives Nationales, Registo das cartas de D. Jerónimo
de Azevedo số 17, fol. 261v, bản văn trong Boletim da Filmoteca Ultramarina
Portuguesa [= BFUP] 4, 1954, trang 826 và 7, 1956, tr. 823 ốThư của nhà vua
gửi phó vương João Coutinho ngày 23 tháng 1 năm 1618: Lisbonne, Archives
Nationales, Livros das Monơões số 11, fol. 183, doc 991, xb trong R.A.DE BULHãO
PatO, sách và tập đã dẫn trang 351 ốThư của nhà vua gửi phó vương João Coutinho
ngày 23 tháng 1 năm 1618: Lisbonne, Archives Nationales, Livros das Monções số 11, fol. 53, doc. 943, xb. Academia Real
das Sciencias, 1893, trang 280 ốThư của nhà vua gửi phó vương João Coutinho ngày
5 tháng 3 năm 1620: Lisbonne, Archives Nationales, , Livros das Monções
số 13, fol. 271: xb do P.-Y. MANGUIN, Le Portugais sur les côtes du Viêt nam
(xem chú thích 17) trang 308.
32. Các thư của phó vương João
Coutinho gửi nhà vua ngày 7 tháng 2 năm 1619 và ngày 8 tháng 2 năm 1619:
Lisbonne, Archives Nationales, Livro dasMonções số 11, fol. 54, doc.944 và fol.
184,doc 992; xb trong R.A. DE BULHÃO PATO, sd. tập IV, trang 281 và 382.
Còn về thái độ của phó vương
Francisco da Gama, xem Manuel TEIXEIRA, A diocese portuguesa de Malaca (Macau
e a sua diocese, tập 4) Macau xb do Boletim Eclesiástico, 1957, tr. 242.
33. Pierre- Yves MANGUIN, Les
Portugais sur les côtes du Viêt-Nam et du Campa (xem chú thích 17)
34. George Bryan SOUZA, The Survival of Empire,
Portuguese Trade and Society in China and the South China Sea, 1630-1754,
Cambridge (Grande-Bretagna), 1986.
35. Nên xem Manuel TEIXEIA, Relações
comerciais de Macau com o Viêtnam (Macau e a sua diocese, quyển 15), Macao,
Imprensa Nacional, 1977; và các quyển khác trong bộ Macau e a sua diocese
(16 quyển, Macao, một số nhà xb. 1940-1979).
36. Về địa phận Malacca (thành lập năm 1558), xem
thư của Francisco Vieira à Mutio Vitelleschi, viết từ Macao ngày 26.11.1616:
Roma, Tài liệu lưu trữ của dòng Tên- "ÏARSI", bộ tập JAP-SIN,
quyển 17, trang 21-22 và 22-28; ngoài ra xem các bản báo cáo dịp viếng ad
limina của địa phận Malaca năm 1624: Roma, Archivio Segreto Vaticano, kho tài
liệu S.C. Concilio - Visite ad limina, hộp 481, không dẫn chiếu.
Về địa phận Macao
(thành lập năm 1576), xem bản gốc bức thư của phó vương Jerónimo de Azevedo gởi
nhà vua (1616-1617?): Goa, Thư khố quốc gia, Registo das cartas de D. Jerónimo
de Azevedo số 12, trang 28-29; bản văn trong BFUP 4, 1955, trang 724, dẫn
chiếu 7, 1956, trang 859.
37. Xem thư của João Rodrigues Giram gửi Nuno
Mascarenhas, từ Macao 26.2.1615: ARSI, JAP-SIN , quyển 18-II, trang
169-171 và 172-173; thư của Valentim de Carvalho gửi Nuno Mascarenhas, từ Macao
9.2.1615: tlđd, trang 174- 175; v.v... Cũng xem Nicolao DA COSTA " Annua
do Collegio de Macao desde Janeiro de 615 ate o outro de 616”, đề ngày
17.1.1616 từ Macao: ARSI, JAP-SIN. quyển 114, trang 1-9 (trang 4v-5).
38. Xem Giuliano BALDINOTTI, “Viagem de Tunkim” và
” Breve relação” (1626): Lisbonne, Biblioteca da Ajuda, Jesuítas na Ásia,
quyển 49/V/31, trang 15-24. ố Pêro MARQUES "Annua de Tunkim aũo 1627” đề
ngày 25.7. 1627: ARSI, JAP-SIN quyển 88, trang 11-18v . -- Vô danh
“Missam que se fes do Collegio de Macao ao Reino de Tonquim cabeça da Cochỹchina
no anno de 1627” tlđd. quyển 72, trang 88-127. ố Alexandre DE RHODES ”
Initium missionis Tunquinensis anno 1627”, Lisbonne, Biblioteca da Ajuda,
Jesuítas na Ásia, quyển 49/V/31, trang 24- 26 v và quyển 49/V/6, trang 443
v 446 v . Thư của João Rodrigues Girão gửi
Antonio Freir, từ Macao 25.11.1627: Lisbonne, Biblioteca Nacional, Manuscritos,
hộp 30, số 210.
39. Từ năm 1580, các vua Tây ban nha đồng thời cũng
là vua xứ Bồ đào nha. Năm 1640, Bồ đào nha lật đổ vương quyền Tây ban nha và đưa
một dòng họ thật sự Bồ đào nha lên ngôi: Quận công Bragance. Nhưng trong 30 năm
ấy, tòa thánh xem nhà vua mới nầy là bất hợp pháp và hỗ trợ những đòi hỏi của
vua Tây ban nha. Xem phần dưới.
40. Về sự kiện và hậu quả của khủng hoảng giữa Bồ
đào nha phục hưng và Tòa thánh cũng như việc thiết lập các đại diện tông tòa
cho Việt Nam, xem Henri CHAPOULIE, Roma et les Missions d’ Indochine au
XVIIe siècle, tập I, Clergé portugais et évêques français dans les
royaumes d’ Annam et de Siam, Paris, Bloud et Gay, 1943; tập II, La
constance romaine et l’établissement définitif des vicaires apostoliques dans
les royaumes d’Annam et de Siam, Paris, Bloud et Gay, 1948; và António DA
SILVA REGO, Lições de Missionologia, Lisbonne, Junta de Investigações do
Ultramar, Centro de Estudos Politicos e Sociais, 1961(xem chương:
“Desentendimento entre o Padroado e a Propaganda na Cochinchina, no Tonquim e
Sião, 1658-1696”, tr. 173-179).
41. Xem các danh sách và thư mục do Manuel
TEIXEIRA xb. trong tác phẩm của ông As Missões Portuguesas no Vietnam [Macau
e a sua diocese quyển 14, Macao, Imprensa Nacional, 1977] tr. 279-491; và
trong Josef Franz SCHÜTTE (xb). Textus
Catalogorum aliặque de personis domibusque S.J. in Japonia informationes et
relationes 1549-1654 (Monumenta Historica Iaponiặ I), Roma, Institutum Historicum Societatis Iesu, 1975, tr.611-1120.
42. Người đương thời còn nói đến
300.000 Kitô hữu: xem phúc trình của Alexandre de Rhodes gửi Propaganda Fide:
Rome, văn khố của Propaganda Fide, tập tài liệu SOCG, quyển 193, trang 462. Nhưng
con số đó còn tranh cãi, những lượng định ngày nay ghi nhận độ 200.000.
43. Chẳng hạn, xem các liệt kê viết
tay của các cộng đoàn ở Đàng Ngoài trong các văn khố dòng Tên tại Macao:
Lisbone, Biblioteca da Ajuda, Jesuítas na Ásia, quyển 49/V/31, trang
44-46 (vào khoảng năm 1640); tlđd quyển 49/ V/33, trang 146-148v (1676) và
379-382 (1678)...
44. Xem Gaspar DO AMARAL: ” Relaçã
dos catequistas da Christandade de Tumquim e seu modo de proçeder pera o Pe
Manoel diaz Vizitador de Jappã e China” (1638): ARSI, JAP-SIN. 88, tr.
348-354v; cũng xem Madrid, Real Academía de la Histora, Archivo de Japón,
leg.21 bis, fasc. 16, trang 31-37; Lisbonne, Biblioteca da Ajuda, Jesuítas
na Ásia, quyển 49/V/31, trang 383-407. Ngoài ra còn xem: Gio[vanni] Filippo
DE MARINI, Delle missioni de’ Padri della Compagnia di Giesv nella Prouincia
del Giappone, e particolarmente di quella di Tumkino, Roma, Nicoló Angelo
Tinassi, 1663, trang 183-188.
45. Xem Processo informatorio điều
tra phong thánh cho Anrê, thực hiện tại Macao từ tháng 12/1644 đến tháng 2 /
1645, và được chính quyền thị xã Macao chứng thực: Roma, Archivio Segreto
Vaticano, kho Riti, số 479. Bản tường trình viết tay của Alexandre DE RHODES:
"Rellação do glorioso Martirio de Andre Cathequista Protomartir de
Cochinchina, alanceado, e degolado em Cachão aos 26 de Julho de 1644, tendo de
idade dezanove annos" : ARSI, JAP./SIN. 71 tr. 261-265. Xem
"Relação da morte do catequista André, proto-mártir da Cochinchina"
[bản văn của Alexandre de Rhodes, dịch lại tiếp ý do Miguel SERRAS PEREIRA,
trong Boletim Eclesiástico da Diocese de Macau 76, 1978, trang 237-262].
Cũng xem Manuel TEIXEIRA, "André, de Phu Yen, o primeiro mártir do Vietnão",
trong Boletim Eclesiástico da Diocese de Macau, 57, 1959, trang 788-793;
id. "Andrew,
the proto-martyr of Vietnam”, trong A precious treasure in Coloane: The
relics of Japanese and Vie Macao, Department of Tourism, 1982, tr. 19-27. Bản tường trình viết tay bằng tiếng Bồ đào nha được phỏng
lại trong pháp ngữ: La glorievse mort d’ André Catechiste de la Cochinchine,
qui a le premier versé son sang pour la querelle de Iesvs-Christ, en cette
nouuelle Eglise. Par le P. Alexandre de Rhodes de la Compagnie de Jesus
qui a toujours esté present à toute cette Histoire, Paris, Sébastien
Cramoisy, 1653.
Cũng cần ghi nhận là thầy giảng Anrê
không có trong danh sách 117 vi thánh tử đạo Việt Nam được phong vào năm 1988,
và cũng không thấy có vị truyền giáo Bồ đào nha hoặc bổn đạo nào của họ trong
danh sách nầy. Việc xin phong thánh cho Anrê, đề nghị lên toà thánh từ năm 1649,
nay còn đang cứu xét: việc chậm trể khó hiểu nầy dường như do việc thất sủng của
các tu sĩ dòng Tên từ sau năm 1659, và sau đó còn do việc tranh cãi về những lễ
chế suốt mấy thế kỷ, chứ không phải vì chính công đức của người thanh niên gan
dạ nầy.
46. Chẳng hạn xem nhận định của tu sĩ
dòng Tên Joseph Tissanier trong các thư gửi cho Goswin Nickel, 29.10.1659, và
cho Pierre Le Carré, 20.11.1660: ARSI, JAP.-SIN. 80, trang 149-149v và
151-151v.
47. Ngoài các tài liệu khác, nên xem
Francisco FARIA PAULINO, Maria Leonor CARVALHÃOBUESCU et alii (dir.), A galáxia
das línguas na época da Expansão, [Lisbonne], Comissão Nacional para as
Comemorações dos Descobrimentos Portugueses, 1992: tr. 54-60, với thư mục trích
dẫn; và Ana Paula LABORINHO, “A questão da língua na estratégia da Evangelização”
trong Macau, 31, 1994, tr. 66-72. Những đại tác phẩm liên quan đến tiếng Nhật có
vào khoảng giữa thế kỷ 16 và 17: Dictionnarium Latino- Lusitanum ac
Japonicum ex Ambrosii Calepini volumine depromptum, Amacusa, 1595, xem bản
chụp lại, Tokyo, 1953 và 1979; Vocabulario da Lingoa de Japam com a declaraçã
em Portuguez, Nangasaqui, 1603. Hai bộ văn phạm Nhật bản của João Rodrigues
(Arte da lingoa de Iapam và Arte breve da lingoa Iapoa) đã được in tại Nhật
bản, tuần tự giữa các năm 1604 và 1608, và vào các năm 1620.
48. Chẳng hạn xem lời tựa không đề tên
của tác phẩm tập thể do Hoàng Văn Hành điều khiển, Từ điển yếu tố Hán Việt
thông dụng. Dictionary of
Sino-Vietnamese everyday usage elements, Hà Nội, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, 1991, trang 5-9. Cũng xem Nguyễn Thị Chân Quỳnh: “Concours de mandarins”
(xem chú thích 3). Chúng tôi không nói đến trường hợp tiếng Đại hàn, vì tiếng nầy
không được người Âu châu nghiên cứu trong thời gian liên hệ.
49. Francisco
de Pina, sinh tại Guarda năm 1585, vào dòng Tên năm 1605. Ông học ở Macao từ năm
1613 đến khoảng năm 1616, đặc biệt rành tiếng Nhật. Chịu chức linh mục ở
Malacca năm 1616, và cuối năm 1617 đi truyền giáo ở Đàng Trong; chết vì tai nạn
tại đây ngày 15.12.1625. Do sự sai lầm của Fortuné-M. DE MONTézon và édouard
ESTEVE trong Mission da la Cochinchine et du Tonkin (Paris, Charles Douniol,
1858, tr. 386), một số tác giả nầy tiếp tục cho rằng Pina là người Ý. Nhưng tài
liệu ghi trong các bản cũ đã nói rỏ: xem Josef Franz SCHÜTTE (éd.), Textus Catalogorum (chú thích 38)
trang 855, 955 và passim.
50. Xem những
chỉ dẫn thư mục nêu lên dưới tên “João Rodrigues” bởi Joseph DEHERGNE, Répertoire
des Jésuites de Chine de 1552 à 1800, Roma, Institutum Historicum S.I., và
Paris, Letouzey et Ané, 1973. Về con người và tài năng của ông, xem Michael
COOPER, Rodrigues the Interpreter. An Early Jesuit in Japan and
China, New York / Tokyo, Weatherhill, 1974.
51. “Tiene questo huomo un figlio di
sedici aũi il più uiuo et habile di quel loco, et il migliore scrittore nella
Irã Cinese, cosa che tra di loro è di molta stima. [...] Questo giouane che
battizato si chiama Pietro, con le sue Irẽ fà di grande agiuto al prẽ, per
tradurre nella lingua della terra il Pater noster, Ave Maria, Credo, et
Decalogo; che li Xpĩani già haũo imparato à mente. Compose anche il prẽ nella
lingua gl’ articoli della fede, ne quali bastantemte si declara hauer un Dio solo, li misterij
della Ssma Trinità, e dell’ Incarnatne e Redentione, e la necessità che habbiamo di
participare i meriti di Chrõ nrõ Sigre per mezzo
della fede, e santi sacramenti. Li Xpĩani uaũo tutto scriuendo, e gia
cominciano à dire la corona à nrõ modo...” Bản báo cáo ký tên Francisco
EUGENIO, tu sĩ dòng Tên người Ý ở Macao, ghi lại những chỉ dẫn lấy từ một tài
liệu khác: ” Annua del Collegio di Macã del 1618” (ARSI, JAP.-SIN. 114, trang
176-185). Bản 183v-184.
52. Câu văn trích ở trang 183v.
53. Những tài liệu nầy trích từ một
bức thư mà chúng tôi nghĩ là nay chỉ còn một bản ở Văn khố dòng Tên tại Macao,
và chúng tôi giữ nguyên văn và phần bình chú: Lisbonne, Biblioteca da Ajuda, Jesuítas
na Ásia, quyển 49/V/7, trang 413-416. Thư không đề ngày và không ký tên; người
chép lại (José Montanha hoặc Manuel Álvares, vào khoảng năm 1755) chú rằng có
thể do chính tay của Pina viết, và cho niên kỷ vào khoảng năm 1622-1623. Chúng
tôi có thể chứng minh chắc chắn tác giả là Pina và niên kỷ (những tháng đầu
1623) có thể là xác thực hơn cả: xem Roland Jacques, L’ỉuvre de quelques
pionniers portugais dans le domaine de la linguistique vietnamienne jusqu’en
1650: luận văn D.E.A. trình tại Paris. INALGO, 1995 (đang in).
54. Daniello BARTOLI, Dell’
Historia della Compagnia di Giesu. La Cina. Terza parte dell’ Asia, Roma,
Stamperia del Varese, 1663, tr. 618.
55. “Era il P.Pina di nation
Portoghese, in età di quaranta anni, caro anche a gl’ idolatri, percioche ne
parlaua la lingua quanto Cocincinese natiuo” (La Cina, tr. 834).
56. Xem thư của Fernandes gửi Nuno
Mascarenhas, đề ngày 2.7.1625 tại Phe-phô: ARSI. JAP-SIN. 68, trang 11-12:
”... Một nhà (dòng) đã được tổ chức tại Cachão, thủ phủ của chúa (Nguyễn); cho đến
nay, nhà đó không thuộc về số các nhà của Hội Dòng, mặc dầu có một cha luôn cư
ngụ đó với một người bạn dòng. Bây giờ, cha Francisco de Pina ở đấy và dạy tiếng
nói cho các cha Alexandre Rhodes và António de Fontes”.
57. António de Fontes, sinh năm 1569
ở Lisbonne, nhập dòng năm 1584; ngài từng làm giáo sư tại Coimbra và Braga, trước
khi đi tàu đến Phương Đông năm 1617; ngài được ủy thác nhiệm vụ truyền giáo tại
Đàng Trong từ 1624 đến 1631, rồi tại Đàng Ngoài và cư ngụ ở đấy nhiều lần cho đến
năm 1648.
58. Xem Gaspar LUIS, “Cocincinicỉ missionis annuae litterỉ anni 1625”, ARSI, JAP.-SIN. 72 (trang
50-67). trang 59-59v; và bài tường thuật không đề tác giả " Relaçã de huã
perseguiçã da Christandade de Cochinchina” (1626): tlđd., JAP.-SIN. 68,
trang 39-40 và 41-42.
59. Công trình nghiên cứu giá trị nhất
hiện nay về đề tài nầy hẳn là tác phẩm của linh mục dòng Tên Việt Nam Joseph Đỗ
Quang Chính: Lịch sử chữ Quốc ngữ 1620-1659, Saigon, 1972; tái bản
Pairs., Đường Mới, 1985. Tuy nhiên tác giả gặp trở ngại vì không sành tiếng Bồ đào
nha. Công trình nghiên cứu cần được bắt đầu lại và bổ túc với toàn bộ tài liệu
viết tay còn lưu. Về buổi đầu văn chương kitô giáo, xem Georg SCHURHAMMER,
“Annamitische Xaveriusliteratur” (Văn chương Việt Nam liên quan đến Phanxicô
Xavie), trong Johannes Rommerskirchen và Nikolaus koWalski (ed.), Missionswissenschaftliche
Studien, Festgabe Pr.Dr. Johannes Dindinger [...] (Các công trình nghiên cứu
khoa học truyền giáo, ca ngợi gs. J.D.), Aix-la-Chapelle, Wilhelm Metz, [1951],
tr.300-314; Võ Long Tê, Dẫn-nhập nghiên-cứu tiếng Việt và chữ Quốc-ngữ [Reichstett
(Pháp) - Trung Tâm Nguyễn Trường Tộ / Định Hướng Tùng Thư, 1997, và NGuyễn Văn
Trung (dir.). Về Sách báo của Tác g Văn chương đại học TP HCM., 1993, đặc biệt
là những đóng góp của THANH Lãng và Võ Long Tê.
60. Về vấn đề tham gia của các kitô
hữu Việt Nam và các công trình sáng chế ngữ học thế kỷ 17, xem Hoàng Tuệ “Về việc
sáng chế chữ quốc ngữ” trong 90 ans de recherches sur la culture et l’
histoire du Viêt-nam, Hà nội, EFEO, 1995, tr.456-460; và Nguyễn Đình Đầu
“Alexandre de Rhodes và chữ Quốc ngữ” [trong Tuyển Tập Thần Học],
8/1993, tr. 47-84.
61. Trong tác phẩm của ông Divers
voyages et missions (xem chú thích 9), Rhodes cho ta khá nhiều yếu tố về cuộc đời
ông. Để nói rõ về nỗ lực riêng của ông trong công trình ngữ học, chúng tôi sẽ
xuất bản một bản viết tay của ông, viết vào năm 1632 và chưa từng được phổ biến;
trong tài liệu nầy, vào thời gian ấy ta sẽ thấy rõ thực trạng và những thiếu sót
của ông về các kiến thức liên quan đến cách phát âm tiếng Việt.
62. Alexandre de Rhodes,
Dictionnarium annamiticum, lusitanum et latinum, “Ad Lectorem”, bản văn ở đầu
sách, không đề trang.
63. Gaspar do Amaral (hoặc de
Amaral), sinh năm 1594 tại Curvaceira (nay là freguesia de Chão de Tavares gần
Mangualde, huyện lỵ của Viseu), nhập hội dòng Tên năm 1607. Trước hết làm giáo
sư ở Braga, Coimbra và É vora, rồi đi Phương Đông năm 1623. Ông được gửi đến
truyền giáo ở Đàng Ngoài năm 1629 và 1638, và cư ngụ tất cả là bảy năm trong
hai kỳ khác nhau. Sau đó, tại Macao, ông giữ chức vụ viện trưởng, phó tỉnh dòng,
rồi làm kinh lược các vùng truyền giáo. Ông chết vào tháng 2 năm 1646, trên các
bờ biển đảo Hải Nam trong một tai nạn đắm tàu chở ngài đến Đàng Ngoài. Vào thời
ngài mất, ngài xem là người có khả năng
nhất trong Hội dòng Tên về tiếng Việt.
64. António Barbosa, sinh năm 1594 ở
Arrifana do Sousa (nay là Penafiel phía đông của Porto), nhập hội dòng Tên tại
Lisbonne năm 1624 và sau đó không lâu đi Phương đông. Năm 1629, ông được gửi đến
truyền giáo tại Đàng Trong, và vào năm 1636 thì đến Đàng Ngoài. Năm 1642, vì bịnh,
ông bắt buộc phải trở về lại Macao, rồi Goa và chết tại đấy năm 1647.
65. Xem J. F. SCHÜTTE, Textus
Catalogorum (xem chú thích 41), tr. 1034-1050. Xem các tài liệu: ARSI, JAP.-SIN.
80, trang 35-38v và 73-81; Lisbonne, Biblioteca da Ajuda, Jesuítas na Ásia,
49/V/13, trang 351- 373 và 661-663; 49/ V/32, tr. 308-327v.
66. Baltazar Caldeira, sinh ở Macao
năm 1608, truyền giáo ở Đàng Ngoài từ 1639; năm 1646 được gửi vào Đàng Trong,
nhưng cùng năm đó bị trục xuất; ngài chết ở Goa năm 1674. Manuel Pacheco, sinh ở
Cantanhede Bồ đào nha, truyền giáo ở Đàng Ngoài từ 1641 đến 1642; phần chính của
sự nghiệp ngài là làm giáo sư tại phân khoa nghệ thuật ở học viện Macao (Faculté
des Arts du Collège de Macao), trong đó có dạy các ngôn ngữ; ngài chết tại đây
năm 1647. Pêro Alberto, sinh ở Bragance (?) truyền giáo ở Đàng Trong vào
1640-1641, và sau đó từ 1641 ở Đàng Ngoài; ngài chết trên chuyến tàu về Macao,
tàu bị chìm năm 1646, cùng với Gaspar do Amaral. Metello Saccano, sinh ở
Messine, đã từng rời Lisbonne để đi Phương đông năm 1643, truyền giáo ở Đàng
Trong giữa các năm 1646 và 1655, và sau đó còn trở lại vào năm 1662; một vài tháng
sau ngài chết ở đây.
67. Xem các tài liệu: Lisbonne,
Biblioteca da Ajuda, Jesuítas na Ásia, 49/V/32, tr. 521-522v và
681-681v; 49/V/61, tr. 231v-252v và 362v-377.
68. ARSI. JAP.-SIN, 80, tr.
88-89v và 96-96v.
69. Daniello BARTOLI, Dell’ Historia
della Compagnia di Giesu. La Cina. Terza parte dell’ Asia, Roma, Stamperia del
Varese,1663; xem bản viết tay (365 trang), còn lưu giữ tại Roma, trong văn khố
của dòng Tên; nhiều lần được tái bản, trong đó: La Cina: Storia della
Compagnia di Gesù, Milan, Bompiani, 1975.
70. ARSI, Fondo Gesuitico
688, tr.153 (kiểm định ký tên Antonio Casilio) và 158 (kiểm định ký tên V.M.=
Vasco Martin?).
71. ARSI. Lus. 37-II, tr. 379-385.
So sánh một trong những thư của Joseph Tissanier đề ngày 15.11.1658, 29.10.1659,
12.11.1659: ARSI, JAP.-SIN. 80, tr. 120-121 và 149-152.
72. Xem chiếu dụ của Giáo hoàng
Alexandro VII "Super Cathedram Pricipis Apostolorum” ngày 9.9.1659, trong Bullarium
Patronatus Portugalliặ Regum, tập II (Visconde DE PAIVA MANSO ed., Lisbonne,
1870), tr. 95. Những phái viên đầu tiên của các Đại diện tông tòa đến Việt Nam
và các năm 1664 và 1666.
73. Một trong các tài liệu có nhan đề:
Breve ragguaglio di ció, che é accaduto nelle Indie Orientali fra i Vicari
Apostolici, ed i missionari della Compagnia di Giesù dall’ anno 1662 fino al
1694. Các bản chép tay ở Roma, văn khố Propaganda Fide, kho Informazioni;
quyển 135, trang 223-233; Roma, thư viện Trung ương Quốc gia, Fondo
Gesuitico, quyển 1255, số 49; bản ngắn hơn ở Lisbonne, Biblioteca da Ajuda,
Jesuítas na Ásia, tập 49/ V/ 32, tr. 789
791. Trong chú thích đã dẫn, chúng tôi đã nêu hai tác phẩm nói đến cuộc
tranh chấp nầy: Henri CHAPPOULIE, Roma et les Missions d’ Indochine, và
António DA SILVA REGO, Lições de Missionologia.
74. Chẳng hạn xem A. THOMASI, La
conquête de l’ Indochine, Paris, Payot, 1934, tr. 13: “Ở Annam cũng như ở
Xiêm, những người Pháp đầu tiên thấy được là những nhà truyền giáo. Cha
Alexandre de Rhodes cập bến Đàng Trong vào năm 1624, sống 25 năm ở xứ nầy và ở Đàng
Ngoài; ngài đưa về được tấm bản đồ đầu tiên của xứ ấy, một cuốn từ điển
Annam-Latinh-Bồ đào nha, một bộ sử Đàng Ngoài và nêu lên những khả năng về thương
mại. Ngài viết: “Đấy là một chỗ nên chiếm lấy và, khi định cư được, thì thương
nhân Âu châu có thể tìm thấy một nguồn lợi phong phú và giàu có” - Thomazi ghi
chú với chỉ dẫn trang sách, nơi tác phẩm của Alexandre de Rhodes về Divers
voyages (đã nói đến trong chú thích 9 ở trên); nhưng lối trích dẫn hàm hồ nầy
thường được lấy lại và bình luận (với ý xấu) trong các sách được xuất bản của
Việt Nam sau nầy, dường như là một sự bịa đặt của Thomazi. Về việc này xem VƯƠNG
Đình Chữ “Một ngộ nhận về Alexandre de Rhodes”,
Công giáo và Dân tộc, TP HCM, số 901,4.4.1993, tr. 18-19.
75. Tác phẩm chính của Pierre HUARD
và Maurice DURAND, Connaissance du Viêt-nam (Paris, Imprimerie Nationale
và Hà nội, EFEO, 1954), trong chương có tựa đề “Việt Nam và người Âu châu” chỉ
nêu lên hai gợi ý bên lề liên hệ đến người Bồ đào nha, mà không có liên quan gì
đến việc chuyển vần latinh chữ viết (trang 51-52). Trong các sử gia về các cuộc
truyền giáo, có thể nêu Alphons MULDERS: Khi nói đến công cuộc truyền giáo tại
Việt Nam, tác giả không hề nhắc đến nước Bồ đào nha hoặc người Bồ đào nha, dường
như Alexandre de Rhodes đã một mình làm hết mọi chuyện (Missiegeschiedenis,
Bussum [NL], Paul Brand, 1957, tr. 337).
76. Người ta có thể có lý chứng về
việc nầy khi lược qua các thư mục dành cho vùng nầy và vào thời nầy. Trong các
tác phẩm gần đây, có thể nêu: NGUYỄN Thế Anh, Bibliographie critique sur les
relations entre Viêt-Nam et Occident (ouvrages et articles en langues
occidentales), Paris, Maisonneuve et Larose, 1967; Kenndy G. TREGONNING, Southeast
Asia: A critical bibliography, Tucson, University of Arizona Press, [1969];
Chantal DESCOURS-GATIN, et Hugues VILLIERS, Guide de recherches sur le Viêt
Nam: bibliographies, archives et bibliothèques de France, Paris, L’
Harmattan, 1983. Còn về thời xa xưa hơn, xem tác phẩm cổ điển chính của Henri
CORDIER, Bibliotheca Indosinica: Dictionnaire bibliographique des ouvrages
relatifs à la péninsule indochinoise, 4 tập, Paris, Ernest Leroux,
1912-1915, và Bản Tra của nó, do M.-A. ROLAND-CABATON, Paris, Van
Oest-Leroux, 1932 (tái bản năm tập: New York 1967 và Đài loan 1969). Còn thư mục
về các công cuộc tr liệu và nghiên cứu), tác phẩm qui chiếu không thể thiếu là
: Robert STREIT và tiếp theo. (ed.). Bibliotheca Missionum, 30 cuốn,
Münster, rồi Aix-la-Chapelle, rồi Roma/Fribourg-en-Brisgau / Wienne, Herder,
1916-1975 (về Đông dương, đặc biệt xem các cuốn 4 [1245-1599], 5 [1600-1699], 6
[1700-1799], 11 [1800-1909], và 29 [1910- 1970]); tác phẩm nầy được nối tiếp bởi
Bibliografia Missionaria (Johannes ROMMERSKIRCHEN và tiếp theo, ed.) xuất
bản hàng năm ở Roma kể từ 1935. Còn về lịch sử hội dòng Tên, có thể có những thư
mục riêng, trong đó có László POLGAR, Bibliographie sur l’ histoire de la
Campagnie de Jésus 1901-1980: tập II/2. Các xứ: Mỹ châu, Á châu, Phi châu, Đại
dương châu, Roma, 1986.
77. Ta có thể trích dẫn một trường hợp
gần đây, nhằm lợi ích tổng quát hơn là khoa học. Ngày 18.1.1996, nhân dịp thăm
viếng chính thức của Hội đồng các giám mục Pháp, tờ nhật báo La Croix (Paris)
đã đăng tải một bài báo do Frédéric Mounier ” Giáo hội Pháp quay về Giáo hội Việt
Nam”; nhà báo đóng ngoặc trích lại bài lời của chủ tịch Hội đồng giám mục: ” Giáo
hội nầy có gốc Pháp. Nó thành lập nhờ nỗ lực của các nhà truyền giáo Pháp”. Xem
bài viết đặt lại vấn đề chúng tôi, đăng trể trên chính tờ báo nầy ngày
12.6.1997 dưới tựa đề "Giáo hội Công giáo Việt Nam có phải là Pháp không?"
Và Roland JACQUES, “Ai đã thành lập Giáo hội Việt Nam" trong Định Hướng,
số 14, mùa đông 1997, tr. 120-124.
78. Trong các sử gia Việt Nam, thí dụ
nên xem LÊ Thành Khôi, Histoire du Viêt-nam des origines à 1858, Paris,
Sudestasie, 1982. Trong các sử gia về các cuộc truyền giáo của Công giáo ở Việt
Nam, chẳng hạn xem luận văn của Nguyễn Hữu Trọng, Le clergé national dans la
fondation de l’ église au Viêt Nam. Les origines du clergé Vietnamien
(Paris, Institut Catholique, 1955), xb. tại Saigon, Tinh Việt, 1959, với những
luận cứ trái ngược lại do Eusebio ARNAIZ, “En torno al patronato portugués”,
trong Boletim Eclesiástico da Diocese de Macau 57, 1959 và 58, 1960, và
do Manuel TEIXEIRA, As Missões Portuguesas no Vietnam (đã trích dẫn
trong chú thích 41), passim.
79. Xem các bản văn hội nghị: Nguyễn
Đức Diệu, ed., Đô Thị Cổ Hội An. Hội thảo quốc tế tổ chức tại Đà Nẳng ngày
22, 23-3-1990, Hà nội, nhà xuất bản Khoa học Xã hội, 1991.
80. Xem Hồng Nhuệ [bút hiệu của Nguyễn
Khắc Xuyên], Công trình nghiên cứu tiếng Việt của một người Thụy sĩ ở Kẻ Chợ
Đàng Ngoài Onufre Borgès 1614-1664: góp í với Roland Jacques về Công trình nghiên
cưú tiếng Việt của mấy người Bồ tiên phong cho tới 1650, Paris, do tác giả
xb., [/Fountain Valley, Ca.(Hoa kỳ), Thánh Linh], 1996. Sách dày 221 trang dịch
ra việt ngữ những bản viết tay mà chúng tôi đã xb., và lấy lại phần chính các
chú thích của chúng tôi (xem Roland JACQUES, L’¿uvre de quelques pionniers
portugais, đã nhắc ở chú thích 53 trên đây); tác giả đã dùng giọng văn
tranh biện gay gắt để bênh vực luận cứ truyền thống chủ trương cho rằng chỉ có
Rhodes là người khai sáng chính yếu về chữ quốc ngữ.
81. Nhiều khía cạnh của chuyến đi nầy chỉ được biết qua bản tường thuật của
Rhodes. Manuel de Azevedo, sinh ở Viseu (Bồ đào nha) năm 1581, chết tại Macao năm
1650. Với tư cách là “kinh lược các vùng truyền giáo của Nhật bản và Trung hoa”
(1644-1650), ngài là thẩm quyền cao nhất của hội dòng Tên ở Viễn đông. Ngài được
một vị khác người Bồ đào nha phụ tá, João Cabral, bấy giờ là viện trưởng học viện
và làm phó-giám tỉnh (1645-1646). Sinh ở Celorico da Beira (Bồ đào nha) năm
1598, Cabral làm kinh lược ở Đàng Ngoài trong các năm 1647-1648. Chính ngài chủ
trì cuộc họp ở Macao (1645) của chúng ta đã nói đến. Ngài chết tại Goa năm
1669.
82. Ngoài các tác phẩm của Henri
Chappoulie và António da Silva Rego trích dẫn ở trên (chú thích 40), về vấn đề
nầy có thể nhắc đến Ignatio TING Pong Lee, "La actitud de la sagrada
congregación frente al Regio Patronato”, trong Joseph METZLER, (ed.), Sacr¿
Congregationis de Propaganda Fide memoria rerum. 350 ans au service des
missions 1622-1972, tập I/1, Roma/ Fribourg-en-Brisgau /Vienne,
Herder,[1971], tr. 353-438.
83. Kể từ năm 1654, nghĩa là 5 năm
trước khi chấm dứt các cuộc thảo luận ấy, liên quan đến tương lai công cuộc
truyền giáo tại Việt Nam vuợt ra khỏi khả năng của Rhodes: việc bổ nhiệm các giám
mục cho Việt Nam, “công việc” được ủy thác cho ngài lúc đầu khi rời khỏi Macao,
từ nay do các cơ quan thẩm quyền tại Roma xử lý. Chính ngài lại được gửi đi Ba
tư. Xem Lucien CAMPEAU, “Le voyage du Père Alexandre de Rhodes en France
1653-1654”, trong Archivum Historicum Societatis Iesu 48, 1979, tr.
65-85, với những tài liệu các văn khố đã trích dẫn.
84. Chẳng hạn Stephen NEILL, A history of
Christian missions (Harmondsworth Middlesex [GB], Penguin, 1979). Tác giả
quả quyết: "The hero of this epic of conversion was Alexandre de Rhodes”
(tr. 195). Nghĩ rằng Rhodes là người duy nhất thực hiện lối viết quốc ngữ,
Neill viết tiếp: “The second gift of Rhodes to the Church was the reduction of
the Vietnamese language to writing in the Latin alphabet. He must have had, in
addition to great gifts for languages, a remarkably accurate ear; for
Vietnamese is a tonal language, and the accurate representation of these tones
is extraordinarily difficult...” (tr. 196). Hẳn là phải đặt lại vấn đề; ngoài
ra ở đây, tác giả diễn tả như một lối giả thiết, khi không trích dẫn được tài
liệu nào chứng minh cho xác quyết của mình.
Tiểu sử của Rhodes được viết ra gần đây hơn cả là do Jean
LACOUTURE (“Un Avignonnais dans la rizière”, trong Jésuites. Une
multibiographie, tập I, Les conquérants, Paris, Seuil, 1991, tr. 297-324),
lối viết khá “khéo léo” vừa nêu lên nhân vật nầy cũng như công việc truyền giáo
của con người gốc Avignon ấy trong khung cảnh như “huyền thoại”, vừa cố đáp ứng
những yêu sách của lối phê bình “lịch sử” của các tác giả tân kỳ. Đáng tiếc là
có quá nhiều chi tiết sai lầm làm cho bản văn mất đi giá trị lịch sử chính yếu
của nó. Một công trình gần đây nhất khai triển lịch sử công cuộc truyền bá kitô
giáo tại Việt Nam trong tiền bán thế kỷ 17 do tu sĩ dòng Tên Philippe LéCRIVAIN:
“La fascination de l’ Extrême-Orient, ou le rêve interrompu” (L’ âge de
raison. 1620/30-1750, tập 9 trong bộ l’ Histoire du christianisme des
origines à nos jours dir. do Jean-Marie Mayeur, Charles Pietri, André
Vauchez và Marc Venard, [Paris,] Desclée, [1997], tr. 755. Rhodes là chính tác
giả sáng chế về ngữ học, thì vẫn tiếp tục trình bày ngài như vị tiên phong, người
chủ động chính đáng được nêu lên trong trang sử nầy.
85. Chẳng hạn xem Nicole Dominique Lê,
Les Missions étrangères et la pénétration française au Viêt-Nam, Paris / La Haye, Mouton,
1975; THẾÁ Hưng, "L’ Église
catholique et la colonisation française”, trong Les Catholiques et le
mouvement national, études Vietnamiennes (Hà nội) số 53, 1978, tr. 9-81; TRẦN
Tam Tỉnh, Dieu et César: les catholiques dans l’histoire du Viêt Nam,
Paris, Sudestasie, 1978; [collectif] Một số vấn đề lịch sử đạo Thiên Chúa trong
lịch sử dân tộc Việt Nam. Kỷ yếu hội nghị khoa học tại thành phố Hồ Chí Minh ngày
11 và 12-3-1988 [TPHCM], Viện khoa học xã hội và Ủy ban tôn giáo nhà nước,
1988.
86. Về vấn đề phục hồi danh dự, xem
chú thích 12.
Cộng đồng Việt Nam hải ngoại có
hai khuynh hướng cực đoan về vấn đề nầy. Có nhiều người công giáo ca tụng
Alexandre de Rhodes quá mức. Nhiều giới khác, nhân danh tinh thần quốc gia, lại
phản ứng ngược lại với suy nghĩ rằng ca tụng người Pháp nầy như một ân nhân của
Việt Nam dường như là cố biện minh cho chế độ thực dân và vì thế người ta phải
tố giác.
87. Xem nghiên cứu của Pierre-Yves
MANGUIN về “Hiệp ước Bangkok ngày 5-12-1786”, trong Les Nguyễn, Macau et le
Portugal (1773-1802), Paris, EFEO, 1984, tr. 55-73; cũng như trong bản văn
trang 62-67.
88. Đây cũng là trường hợp của hai tác
phẩm lớn của Alexandre de Rhodes “Tvnquinensis historiae libri dvo [...],
Lyon, J.-B. Devenet, 1652 [bản dịch pháp ngữ cũng do nhà xb. nầy từ 1651]; và Divers
voyages et missions (nêu lên ở trên, trong chú thích 9). Chẳng hạn xem ý kiến
của ủy ban giám định của hội dòng Tên tại Roma về cuốn sách sau nầy: “Các cha
duyệt sách xét rằng hai cuốn sách về chuyến đi của cha Alexandre de Rhodes có
thể được in, để khích lệ nhiều người về mặt thiêng liêng”, Roma,ARSI, Fondo
Gesuitico 668, tr. 196. Liên quan đến cuốn sách của Rhodes viết về thầy giảng
Anrê, một trong các giám định viên minh nhiên mong rằng Rhodes cần lưu ý nhiều
hơn về các qui luật chép tiểu sử (tlđd. tr.186). Chúng tôi thấy dường như
một số nhà chép sử hiện đại dựa vào các
sách nầy nhưng không lưu ý đủ tinh thần kiểm thảo.
89. Về các kho văn khố Bồ đào nha và
Tây ban nha liên hệ, chẳng hạn nên xem Josef Franz SCHÜTTE, El ‘Archivo de
Japón’, Vicisitudes del Archivo jesuítico del Extremo Oriente y descripción del
fondo existente en la Real Academía de la Historia de Madrid, Madrid, Real
Academía de la Historia, 1964; và António DA SILVA REGO, “Jesuítas na Ásia”,
trong Biblioteca da Ajuda. Revista deDivulgação, I/1, 5.1980, tr.
95-112; Maria Augusta DA VEIGA E. SOUSA, Roteiro e descrição sumária dos
documentos que existem, em microfilmoteca do Centro de Estudos de História e
Cartografia antiga [= BFUP số 47], Lisbonne, 1986. Còn các kho
Roma, phần chính văn khố của hội dòng Tên (ARSI), đặc biệt là kho JAP.-SIN và
Fondo Gesuitico; cũng có thể xem thư viện trung ương quốc gia, Fondo
Gesuitico và văn khố Propaganda Fide. Tất cả các cơ sở nầy mở cửa cho các
nhà nghiên cứu và giúp họ dễ dàng có những
dụng cụ truy cứu.
90. Một số các nhà nghiên cứu Việt
Nam đã trình những luận án sử học hoặc có liên quan đến lịch sử, nói đến thời
liên hệ, tại các đại học ở Paris và Roma. Rất ít luận văn được xb., và gặp phải
những thiếu sót như đã nêu lên, đặc biệt vì không đọc hiểu các nguyên bản viết
bằng tiếng Bồ đào nha. Chúng tôi xin nêu ra đây: Nguyễn Hữu Trọng, Le Clergé
national dans la fondation de l’ église au Viêt-nam. Les origines du clergé
Vietnamien (Paris, Institut Catholique, 1955); Vũ Khánh Tường, Les
missions jésuites avant les Missions étrangères au Viêt Nam, 1615-1665
(Paris, Institut Catholique, 1956); Phạm Văn Hội, La fondation de l’ église
au Viêt Nam, 1615-1715 (Roma, Université Grégorienne, 1960); Đỗ Quang
Chính, La mission au Viêt-nam, 1624-1630 et 1640-1645, d’ Alexandre de
Rhodes, sj, avignonnais (Paris, école Pratique des Hautes études, 1969). Luận
án thần học: Nguyễn Khắc Xuyên, Le catéchisme en langue vietnamienne romanisée
du P. Al Grégorienne, 1956-1957); Placide Tân Phát, Méthodes de catéchèse
et de conversion du P. Alexandre de Rhodes, 1593-1660, (Paris, Institut
Catholique, 1963); MAI Đức Vinh, La participation des notables de chrétientés
vietnamiennes aux ministères des prêtres. Recherche historico-pastorale,
1533-1953 (Roma, Université St.-Thomas, 1977); Nguyễn Chí Thiết, Le Catéchisme
du Père Alexandre de Rhodes et l’ âme vietnamienne (Roma, Université Grégorienne,
1980). Các luận văn về giáo luật: Nguyễn Việt Cử, De institutione Domus Dei
in missionibus Tonkini: Studium Juridicum (Roma, Université Grégorienne,
1954); Nguyễn Trọng Hồng, L’ Institut des catéchistes et les missions d’ Indochine
au XVIIe siècle (Roma, Université Urbanienne, 1959); Phạm Quốc Sử, La
Maison de Dieu, une organisation des catéchistes au Viêt-Nam (Roma,
Université Urbanienne,1975). Như chúng ta đã từng nêu lên, luận văn của Nguyễn
Hữu Trọng đã từng được phát hành, và gặp đào nha: xem lại chú thích 78.
Ngoài ra, nhiều giáo sư đại học Việt
Nam đã viết về con người và sự nghiệp của Alexandrede Rhodes, đặc biệt vào dịp
kỷ niệm 300 năm ngày chết của ngài. Xem các bài báo trong tập san Tạp chí Đại
học, 1960 và 1961 - Huế; số đặc biệt của Việt Nam khảo-cổ tập san Sài gòn. 300
năm sau ngày cha Đắc Lộ qua đời 1593-1660 số 2/1961, 258 trang.
91. VƯƠNG Lộc (éd.), Annam dịch
ngữ, Hà nội, Trung tâm từ điển học, 1995. Đây là bảng từ vựng dùng cho cơ
quan hành chính (nhà Minh) đặc trách giao dịch với các nước nhỏ phải triều cống.
92. “Relaçã da gloriosa morte que
padeçerã pella confissã da feê de Xpõ nosso Senhor tres cathechistas dos Padres
da companhia de JESVS em o Reino de Cochinchina, nos annos de 1644., e 1645”,
bản chép tay chưa xuất bản đề năm 1649 tại Goa, ký tên Mathias DA MAYA: ARSI,
JAP./SIN. 70a, tập rời.
93. Batalhas da Companhia de Jesus
na sua gloriosa provincia do Japão, bản chép tay năm 1650, xb. Luciano
CORDEIRO, Lisbonne, Sociedade de Geografia/Imprensa nacional, 1894: tr.
185-198.
94. Noticias summarias das
perseguições da missam de Cochinchina [...], Lisbonne, Miguel Manescal,
1700, tr. 50-76. Tuy nhiên, bản văn nầy có nét đặc sắc riêng so với bản chính.
95. Alexandres de RHODES, Lịch sử
về đời sống và cái chết vinh quang của năm cha dòng Tên, đã chịu khổ ở Nhật bản.
Với ba linh mục triều, năm 1643, Paris, 1653.
96. Xem Alexandre DE RHODES, Divers
voyages et missions (đã dẫn ở chú thích 9),tr. 74.
97. Metello SACCANO, Relation des
progrèz de la Foy au royaume de la Cochinchine ès années 1646, et 1647,
Paris, Sébastien et Gabriel Cramoisy, 1653, tr. 129.
98. Xem phúc trình hàng năm của
Gaspar do Amaral ngày 31.12.1632: Lisbonne, Biblioteca da Ajuda, collection Jesuitas
na Ásia, cuốn 49/V/31, tr. 219v.
99.
Xem nghiên cứu về đề tài nầy của Manuel CADAFAZ DE MATOS, trong phần dẫn
nhập của tái bản cuốn đầu in năm 1588 tại Macao: Christiani pueri
institutio, adolescentiaeque perfugium của Ioannes BONIFACIO (Macao,
Instituto Cultural de Macau, 1988).
100. Francisco de Santo Agostinho MACEDO, Filippica
Portuguesa contra la invectiva castellana [1645], trích dẫn bởi Charles
Ralph BOXER, The Church Militant and Iberian Expansion 1440-1770,
Baltimore /Londres, Johns Hopkins University Press, [1978], tr. 91.
101. Về vấn đề nầy, xin xem nghiên cứu của chúng tôi.
L’¿uvre de quelques pionniers portugais dans le
domaine de la linguistique vietnamienne jusqu’ en 1650 (xem chú thích 53).
102. André Georges HAUDRICOURT,
“Origine des particularités de l’ alphabet vietnamien”, trong Bulletin “Dân
Việt Nam”, đã nói ở chú thích 8.
103. Kenneth J. GREGERSON, “A Study
of Middle Vietnamese Phonology”, trong Bulletin de la Société des études
Indochinoises, đợt mới 44/2, 1969, tr. 131-193.
104. HOÀNG Thị Châu, Tiếng Việt
trên các miền Đất nước (Phương ngữ học), Hà nội, xb. Khoa học Xã hội, 1989.
105. Một bằng chứng cho thấy qua
PHAïM Xuân Hy, “Ba bản ‘Kinh Tin Kính’ bằng chữ Nôm”, trong Trần Anh Dũng
(dir.). Hàng Giáo phẩm Công giáo Việt Nam 1960-1995, Paris, tự xb.,
1996, tr. 487-503. Ngoài ra, xem bài dẫn nhập trong tác phẩm của Vũ Văn Kính,
Đất nước 4000 năm: Bảng tra chữ Nôm thế kỷ XVII (Qua tác phẩm của Maiorica),
Nhà xb. TPHCM, 1992.
Về chữ nôm, có nhiều thư mục bằng tiếng Việt, chúng ta chỉ nêu lên đây, chẳng
hạn Trần Nghĩa, “Dẫn nhập tổng quát”, trong Di sản Hán Nôm Việt Nam thư mục đề
yếu, do Trần Nghĩa và François GROS, Hà nội, Ed. Sciences Sociales, 1993, tập
I, tr.15-47; Nguyễn Đình Hòa, “Chữ Nôm, The demotic system of writing in
Vietnam”, trong Journal of the American Oriental Society, 1959; Bửu Cầm,
“Nguồn gốc Chữ-nôm”, trong Văn hóa Nguyệt san 50, 1960, 347-355; Bửu Cầm,
Dẫn-nhập nghiên-cứu Chữ-nôm, Sài gòn [1962].
106. Chẳng hạn xem Stephen NEIL , A history of
Christian missions (chú thích
84):“Furthermore, he [Rhodes] rejected the tendency of the scholars to a high
style of writing, with many words and phrases borrowed from Chinese and written
in Chinese characters; he set himself to develop the quoc-ngu, the ordinary
language of the people, and to make it a fit instrument for the expression of
Christiantruth” (tr. 196-197).
107. Lê Thành Khôi, Histoire du
Viêt Nam des origines à 1858, Paris, Sudestasie, 1982, tr. 290.
108. “Uma copiosa liuraria de 48
volumes, que compos, ou uerteo nesta lingoa, e letra natiua”: Francisco
RANGEL, Annua du Tonkin 1659, ARSI, JAP.-SIN. 64, tr. 366v. Giorolamo Maiorica
là một tu sĩ dòng Tên người Ý truyền giáo tại Đàng Ngoài. Xem Hoàng Xuân Hãn,
“Girolamo Majorica. Ses oeuvres en langue vietnamienne conservées à la Bibliothèque
Nationale de Paris”, trong Archivum Historicum Societatis Iesu, 22,
1953, tr. 203-214.
109. Chẳng hạn xem các danh mục của
các nhà in truyền giáo ở Qui nhơn 1920, Kẻ sở 1920 và 1925, Tân định 1922, Hà nội
1926, Phú nhai 1927... Chúng ta cũng có thể ghi nhận việc tái bản một truyện thánh
rất xưa bằng chữ nôm về thánh Antôn de Padoua (hoặc đúng hơn và Antôn
Lisbonne), một vị thánh Bồ đào nha rất được dân chúng mến mộ: Chuyện ông thánh
Antôn hay làm phép lạ, chuyển ngữ do Nguyễn Hưng [xb.tpHCM do tác giả],
1995. Việc phổ biến tập sách nhỏ nầy, dấu tích của một thời đã qua. Vì từ nay
phải chuyển ngữ từ chữ nôm qua quốc ngữ, biểu hiện một nỗ lực đối thoại văn hóa
mà những nhà truyền giáo đầu tiên và các tín hữu đầu tiên thực hiện trong cộng đồng
công giáo Việt Nam, xuyên qua các thế kỷ.
110. Xem những suy nghĩ của
Francisco de Pina về vấn đề nầy trong bức thư đã dẫn (Biblioteca da Ajuda, cuốn
49/V/7, tr. 413-416). Những thủ bút đầu tiên do người Việt Nam viết bằng chữ quốc
ngữ có từ 1659: đó là những bức thư gửi cho tu sĩ dòng Tên Giovanni Filippo
Marini: ARSI, JAP.-SIN, 81, tr. 246-259v.
111. Xem André MARILLIER, Nos pères
dans la foi. Notes sur le clergé catholique du Tonkin de 1666 à 1765, tập
3, [Paris], église d’ Asie, [1995], tr. 170-172. Trong văn khố của Hội truyền
giáo Paris, tác giả đã nêu lên một cách có hệ thống các ám chỉ nói đến việc sử
dụng tiếng nói và hai cách viết tiếng nói nầy; những kết luận rút ra hoàn toàn
trùng hợp với những gì nêu lên ở đây. Sự kiện đó đòi hỏi phải xét lại những khẳng
quyết vội vàng; chúng tôi nêu lên ví dụ qua một quan điểm rất ôn hòa, đó là
quan điểm của Jean COMBY: Alexandre de Rhodes không phải là người sáng chế chữ
quốc ngữ, nhưng ngài đã “cống hiến việc phổ cập hóa chữ viết đó” (Deux mille
ans d’ évangélisation, Tournai, Desclée, 1992, tr. 165-166). Nói đến việc
phổ cập hóa vào thế kỷ 17 là hoàn toàn phản niên kỷ. Cũng như xác quyết sau đây
của Henri BERNARD- MAỴTRE : “Alexandre de Rhodes phải được xem như nhà truyền bá
chính về sáng chế phi thường nầy” ( Le P. de Rhodes et les Missions trong Simon
DELACROIX (dir.), Histoire universelle des Missions catholiques, tập II,
Paris, Grund, [1957], tr. 53-69: tr. 57). Kỳ thực, các tác phẩm của Rhodes được
in ra rất ít được “phổ biến”.
112. Ở đây chúng tôi không dùng các ý
niệm “ngữ âm” và “âm vị” một cách chính xác như các nhà ngữ học thường sử dụng.
Ngoài ra, trong trường hợp chữ quốc ngữ, các khuynh hướng đề cập vấn đề không có
gì tuyệt đối. Việc ghi chép theo ngữ âm muốn mô tả hết sức trung thực các hiện
tượng cấu âm và âm học, nghĩa là cái gì thực sự được đọc lên và được nghe. Còn âm
vị học là một khoa học mới có đây, nhằm nghiên cứu các cách phát âm dưới góc độ
của vai trò mà các cách phát âm đã thực hiện (các đối vị..., ) dựa vào những ý
niệm về hệ thống và sự thích đáng trên bình diện truyền thông.
113. Thật vậy, các nhà ngữ học hiện
nay cho rằng ba phụ âm mũi-cuối ở phần sau hết của một chữ nêu lên trên đây không
chống kháng nhau, nhưng chỉ là một siêu-âm-vị ( ÷ ), mà lối phát âm thay đổi tùy
thuộc vào nguyên đi trước. Vì thế:
- biến thể mặt lưởi - vòm mềm [ ÷ ] xuất hiện:
. sau những nguyên âm có độ mở tối đa /a/
(lang); và /a/ (lăng)
. sau những nguyên âm ngậm: / Ã / (vâng); /Q/ (lương); và / i / (lưng);
. (hiếm khi ở) sau nguyên âm mở phía trước
/ ε / (leng);
. một cách ngoại lệ khi ở sau một nguyên âm
hơi mở tròn phía sau / 7 / (boóng);
- biến thể mặt lưởi - vòm trước [ø] xuất hiện
sau các nguyên âm mặt trước /¿/ (lanh); / e /
(lênh); và / i / (linh);
- biến thể môi - vòm mềm [ NW ] (vào thế kỷ
17 và 18 được ghi chú bằng dấu <~> xuất hiện sau các nguyên âm tròn phía
sau / / (long), /o/ (lông); và sau / u /
(lung).
Cách nói của âm vị học diễn tả như sau: khi các nguyên âm đều đã được ghi bằng
những ký hiệu khác nhau, thì ba lối viết cuối có thể ghi bằng cùng một ký hiệu
theo mẫu tự, chẳng hạn <ng>. Trở ngại ở đây là các nguyên âm Việt
Nam / a / và / ỉ
/ đều được ghi bằng một ký hiệu duy nhất
là <a>.
Nếu vấn đề giải quyết, thì chỉ có sự khác biệt sau nguyên âm / / cho những
chữ như <boong>, <boóng>, đối chống với <bong>, <bóng>.
Nhưng đó là những trường hợp hết sức đặc biệt nên hẳn đây là một sự đối kháng về
phát âm “không mấy quan hệ” trong âm vị học. Chính tả mới ngày nay đã tìm được
giải pháp cho vấn đề bằng cách sáng chế ký hiệu mẫu tự <oo>. Những nhà sáng
chế người Bồ đào nha đã từng mượn dấu phụ <~> (đặt trên chữ <o> vàø<u>
phần cuối) nơi chữ viết Bồ đào nha của họ.
114. Đáng lưu ý khi nhận ra được rõ
ràng một sự tiến hóa ngay nơi một người sử dụng lối chữ nầy. Ta thấy cũng một
người ký tên Việt Giacôbê Nguyễn ghi lại những lời khai của các nhân chứng
trong vụ án phong thánh cho những người Tây ban nha tử đạo đầu tiên tại Việt
Nam trong năm 1746 và trong năm 1768. Giữa hai năm nầy có những qui ước chính tả
đổi mới (Archivio Segreto Vaticano, kho Riti số 3014 và 3013). Nhưng nhân chứng
rõ rệt nhất về những đổi thay nầy là cuốn Dictionarium Annamiticum Latinum
de Pierre PIGNEAU DE BéHAINE, bản viết tay hoàn thành năm 1772, xb. sau đó bởi
Jean-Louis TABERD: Dictionnarium Annamitico-Latinum, Serampore [Inde],
1838. Trái lại các bản văn của Philiphê do Rosário BỉNH vẫn giữ lại những qui ước
cũ; vị tu sĩ dòng Tên người Việt nầy, sống ở Lisbone từ 1796 cho đến khi chết vào
năm 1832, là người chủ trương bênh vực quyền bảo trợ (padroado) của Bồ đào
nha trong các công tác truyền giáo tại Việt Nam, và không muốn ảnh người Pháp
(xem Biblioteca Apostolica Vaticana, kho Codici Borgiani Tonchinesi, số
1 đến 23).
115. Xem các minh xác trên đây ở chú
thích 3.
116. Lợi ích của chữ quốc ngữ ngay từ
1907-1908 đã được phong trào văn chương ái quốc “Đông kinh Nghĩa thục” đề xướng.
Tuyên ngôn của phong trào nầy, tức khắc bị chính quyền thực dân đàn áp; tuyên
ngôn đó cũng nói đến việc sáng chế chữ quốc ngữ là do “các linh mục Bồ đào
nha”, nhưng không đưa ra lý chứng rõ rệt. Chúng tôi trích dẫn theo Văn tuyển
Văn học Việt Nam 1858-1930, Hà nội, xb. Giáo dục 1981, tr. 195. Cũng xem thêm
Nguyễn Khắc Viện (dir.), Anthologie de la littérature vietnamienne, tập
III, Hà nội, éd. en Langues étrangères, 1975, tr. 25-30 và 248.
117. Chẳng hạn xem LÊ Thành Khôi
“Introduction à l’ histoire et à la culture du Viêt-nam”, trong La jeune et
la rouge [Paris], école Polytechnique], số 525, 5.1997 (tr. 5-13): trang
13. Trong bài báo nầy, nhà sử học dường như đã gia giảm lối phê phán của mình
(xem lại chú thích 107).
118. Đây là điển hình về việc phục hồi
danh dự cho Rhodes, qua một bản văn có tính cách quyết định, mà chúng ta có lần
nói đến: "Together with European missionaries he set to romanize the
script of Vietnam, using the Roman alphabet to record the Vietnamese language. It took the
group nearly half a century to complete this collective work in which Alexandre
der Rhodes played the main role. Not until two centuries latter did quốc ngữ
(national script) become the popular written language of Vietnam and efficient
vehicle in the modernization of the Vietnamese society... Alexandre de Rhodes’s
services to Vietnam are immeasurable... It is time to correct the erromeous
appraisal... and to do him justice in the light of truth and fairness...”
("'Let’s do Justice do Alexandre de Rhodes": Vietnam Social
Sciences [Hà nội] 40, 2/1994, tr. 88-89). Theo quan điểm của chúng tôi, những
gì nêu lên ở đây để tôn vinh Alexandre de Rhodes, thì hẳn nhiên cũng áp Bồ đào
nha.
119. Về vấn đề nầy, xem các suy nghĩ
của Nguyễn Phú Phong “Le Vietnamien: un cas de romanisation inachevée”, trong Cahiers
d’ Etudes Vietnamiennes [Université Paris VII], 10, 1989-1990, tr. 25-32.
Roland JACQUES sinh năm 1943 tại miền Lorraine Pháp.
Tiến sĩ luật học tại Phân Khoa Luật Jean-Monnet de Sceaux, Đại Học Paris –Nam,
Tiến sĩ Giáo Luật Công Giáo tại Đại
Học Paris và Học Viện Quốc Gia Ngôn Ngữ và Văn Minh Đông Phương Paris (
Faculté de Droit canonique de Paris et de l’Institut National des Langues et
Civilisations Orientales de Paris) .
Cữ nhân và phó tiến sĩ về ngôn ngữ,
văn chương và văn minh Việt Nam tại Học Viện Quốc Gia Ngôn Ngữ và Văn Minh Đông
Phương Paris. Ông cũng đã thực tập hai năm tại Việt Nam và nghiên cứu tại Trung
tâm Khoa học Xã hội Quốc gia (1994-1996).
Giáo sư khoa trưởng
Phân Khoa Giáo luật, Đại Học St Paul, Ottawa, Canada
Các tác phẩm đã xuất bản :
-
De Castro Marim à Fạfo :
Naissance et développement du padroado portugais d’Orient, des origines à 1659 (Lisbonne, Fondation Calouste Gulbenkian,
1999)
-
"Portuguese Pioneers of Vietnamese Linguistics
Prior to 1650 / L'oeuvre de quelques pionniers portugais dans le domaine de la
linguistique vietnamienne jusqu'en 1650
(Bangkok, Orchid Press, 2002, 408 p.).
-
"Des nations à
évangéliser, Genèse de la mission catholique pour l'Extrême-Orient"
(EÉditions du Cerf, Paris 2004)
(EÉditions du Cerf, Paris 2004)
-
« Les missionnaires portugais et les débuts de
l’Église catholique au Viêt-nam » (Các nhà truyền giáo Bồ Đào Nha và thời kỳ đầu của Giáo hội
Công giáo Việt Nam), (Đinh Hướng, Reichstett 2004)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét