Nicolas Buttet
Nổi Lửa Lên
Brủlé au soleil de Dieu
Đã được tác giả cho phép ngày 14.11.1999
ISBN 2-912554-16-0
Người dịch Nguyễn Đăng Trúc
Xuất bản và phát hành
Cộng đoàn Lavang
Và
Trung Tâm Nguyễn Trường Tộ
13G Rue de
l'Ill
67115
Reichstett - France
Tél. 0033/ 3-88
20 58 22
Định
Hướng Tùng Thư
- 2000 -
Đốt Lên Lại
Lửa Thương Yêu
Chấp nhận Chúa là chấp nhận các Mối Phúc, là
khám phá an lạc. Các Mối Phúc, là trần thế lộn ngược, nhưng lại là sinh lực của
sự sống thật. To be or not to be, đó là vấn đề. To
be, đó là giải đáp. Và muốn hoàn
thành nhân tính phải đi đến nguồn suối
nóng bỏng và mang lại sự sống. Lửa Chúa Kitô thắp lên trên nhân thế nay đã
nguội. Chúng ta cần phải đốt lửa ấy cháy sáng lên.
NỔI LỬA LÊN
Tâm
sự của Nicolas Buttet
do
Bénédicte Freysselinard ghi lại
Lời tựa của Blandine de Dinechin
Lời
giới thiệu của
TGM.
PX. Nguyễn Văn Thuận
Lời
giới thiệu
Bạn thân mến,
Cuốn sách đang ở trên tay bạn, do chính tác giả
tặng cho tôi. Càng đọc tôi càng nghĩ đến các bạn trẻ. Những người muốn tìm một
lý tưởng, những người quảng đại, sẵn sàng liều mạng theo Chúa Giêsu, mang hy
vọng lại cho xã hội hôm nay. Mặc dù trong cuộc đời có khi đã gục ngã.
Nicolas Buttet là người đã sống kinh nghiệm đó.
Trong tập sách nhỏ này, bạn sẽ ngạc nhiên vì ơn Chúa có sức thay đổi mãnh liệt,
bạn sẽ thích thú vì gặp được một người bạn chân thành, khiêm tốn thuật lại đời
anh cho bạn nghe; bạn sẽ bị cuốn hút như nhiều thanh niên thiếu nữ khác.
Tôi không đả động đến các chi tiết. Tôi muốn để cho
bạn tự khám phá lấy.
Chiều nay tôi có một buổi nói chuyện lý thú với anh
Nicolas Buttet tại Thụy Sĩ. Trước khi ra về anh nói với tôi: "Cộng đoàn
của chúng con mang tên "Eucharistein", được xây dựng trên 3 cột trụ :
Phép Thánh Thể - Mẹ Maria - Tình bạn. Con xin hứa con sẽ đặt tên "Cộng
đoàn Đức Mẹ Lavang" dưới nhà tạm, để mỗi ngày lúc chầu Thánh Thể chúng con
luôn cầu nguyện.
Tu viện Orsonnens, 14 . 11 .1999
TGM PX. Nguyễn Văn Thuận
Lời tựa
Sau
khi tốt nghiệp cử nhân luật, Nicolas Buttet dấn thân vào chính trị : từ năm
1984 đến 1988, anh làm chủ tịch những đảng viên trẻ thuộc đảng Dân chủ Thiên
Chúa giáo tiểu bang Valais, Thụy Sĩ. Từ năm 1985 đến 1989, anh làm nghị viện
phụ khuyết của Đại Hội đồng tiểu bang nói trên. Tại Hội đồng Đại kết các Giáo
Hội, anh chuẩn bị cho cuộc hội nghị thế giới về công lý, hòa bình và bảo vệ
thiên nhiên họp tại Hán Thành năm 1990. Sau đó, anh làm việc tại Hội đồng Giáo
hoàng Công lý và Hòa bình bên cạnh Hồng y Etchegaray. Anh sẽ không nhắc lại nhiều
về thời kỳ sinh hoạt ấy trong cuốn sách này.
Thật
thế, Nicolas Buttet ngày nay đã đi vào một cuộc sống mới; từ năm 1992, anh đã
chọn cuộc sống độc thân tận hiến, tại ẩn viện Đức Bà Núi Scex, vùng
Saint-Maurice-d'Agaune, là danh địa Kitô giáo Thụy Sĩ. Và anh muốn tâm sự với
chúng ta nhiều hơn về khúc quanh này của đời anh: chọn cuộc sống thanh bạch,
rao truyền Phúc Âm, cầu nguyện, sống Thánh Thể, đốt sáng niềm tin Kitô hữu còn
nguội lạnh, không ngừng quay về với Thiên Chúa và kêu gọi sám hối, nêu lên vai
trò quan trọng của Mẹ Maria trong đời sống mình, "Mẹ là con đường tắt đem
con người đến với Thiên Chúa". Con người của anh có sức thu hút đặc biệt,
nhưng lời nói của anh mạnh dạn, đôi khi như khiêu khích. Tác giả sẽ cho chúng
ta thấy cuộc đời ẩn sĩ đem lại nhiều ý nghĩa cho thế giới chúng ta.
Bénédicte
Freysselinard, chuyên gia về văn hào Bernanos, đã biết cách chuyển sứ điệp của
người trẻ 37 tuổi này; chàng trai Nicolas Buttet không ghì cương ngựa, dừng
nghỉ giữa đường vì anh vừa thành lập Cộng đồng huynh đệ Eucharistein. Anh muốn
hô to tiếng gọi yêu thương :"Lửa nguội rồi. Chúng ta phải gấp nổi lửa lên
!"
Nắm
lấy vận mệnh đời mình, không phải là trao đời mình trong bàn tay của Thiên Chúa
hay sao ? Hẳn nhiên rồi. Nicolas Buttet dựa vào thánh Têrêxa Lisieux, mẹ Têrêxa
Calcutta, Đức Gioan-Phaolô II để khẳng định xác tín của mình.
Đó
là tâm sự của Nicolas Buttet, "nhiệt tình và nóng bỏng" !
Blandine de Dinechin
I
Sau cơn tỉnh ngộ, một nếp sống mới
Vừa bước lên bốn trăm tám mươi
hai cấp dẫn đến nhà nguyện Đức Bà Núi Scex, tôi vừa tiếp chuyện với mấy người
trẻ đến thăm. Một bạn chưa biết tôi, nói vọng lên :"Ông trên ấy làm ẩn sĩ kiểu gì kỳ vậy !
Không biết ông làm được gì, mà sao không giống ai hết. Nghe nói có lúc còn đi
Paris, đi nhiều nơi khác nữa ! ẩn sĩ như vậy đâu có được !".
Có lẽ người bạn trẻ ấy có lý !
Thật ra, tôi không phải là ẩn sĩ theo nghĩa là "người sống một mình".
Tôi có nhiều người đến thăm, nên khó nói rằng ẩn mình theo nghĩa xa cách bên
ngoài. Tuy vậy, tôi sống cuộc sống ẩn dật thâm sâu, thanh thản, hiện diện giữa
mọi cuộc gặp gỡ này, xa cách với trần thế, nhưng thật sự được nối lại với trần
thế ấy. Dẫu thế nào, ẩn sĩ hay không, không quan hệ gì bao nhiêu : điều đáng kể
đối với tôi, đó là sống với Chúa Giêsu như ý Ngài muốn . Phúc âm không bao giờ
đóng khung trong các mô thức. Chúa gọi mỗi người, để mỗi một người thực hiện
nét độc đáo trong nếp sống của mình, vì Chúa hẳn dư sức tưởng tượng để khỏi
phải làm lại hai lần cùng một vật như nhau. Nhìn từ bên ngoài, thật hết sức lạ
lùng. Nhưng cả bên trong cũng đáng ngạc nhiên không kém !
Sau một đoạn đường dài và khúc
khuỷu - nhưng làm sao khác được vì đây là cuộc đời con người và vấn đề đức tin
! -, Chúa đã cho tôi có đủ sức để quyết định và nói "xin vâng" với
Ngài, lúc ấy, tôi ký trao Ngài một chi
phiếu toàn quyền, và không quên nhắc Ngài lưu ý kỹ :"Xin Chúa làm gì tùy
ý, nhưng nhớ nói thật to, thật mạnh, vì Chúa thừa biết là con điếc và cứng
đầu!". Nếu trước đây, lúc còn làm việc trong Đại Hội Đồng của Valais Ạ hoặc suốt thời gian tập sự luật sư và
chưởng khế, nếu ai nói có ngày tôi sống tại ẩn viện này, hẳn tôi phải phì cười.
Nhưng đường của Chúa hẳn không phải đường của chúng ta ! May thay !
Tôi sống trong ẩn viện nhỏ bé
này, trên núi Saint-Maurice, trong cùng Valais, năm năm qua. Một cuộc sống ẩn
dật, ngày ngày tâm sự thân mật, lòng bên lòng với Chúa. Tôi khám phá nơi đây như một góc trời
mới, giữa những bức tường đá níu bám vào sườn núi, được xây vào năm 1628. Không
phải vì vậy, mà xa lạ với thế giới và khổ đau con người đâu ! Trái lại, âm vọng đau thương dội lên đây có lẽ còn rõ
hơn ở nơi khác, vì chỉ có thinh lặng mới cảm nhận được âm độ đặc biệt của tiếng
rên siết thầm kín nhất. Từ nơi ẩn viện này, điều đổi thay, đó chính là cái nhìn.
Khoảng cách ấy cho phép ta triển khai một cái nhìn khác, một cái nhìn hy vọng
đối với những gì xem ra tuyệt vọng hoặc não nề.
Cạnh nhà nguyện Đức Bà núi
Scex ("Scex" do từ chữ saxum, là núi đá), vào thế kỷ thứ VII, đã có
một người ẩn tu đầu tiên cư ngụ, đó là thánh Amé; và danh tiếng của ngài đã
biến đây thành nơi hành hương. ẩn viện này lại thuộc Đan viện
Saint-Maurice-d'Agaune, là Tu viện xưa nhất sinh hoạt không gián đoạn của Tây
phương Kytô giáo. Nó được cung hiến để ca tụng Thiên Chúa và kính nhớ hồng ân
tử đạo của thánh Maurice và các bạn ngài. Sự kiện tôi cư ngụ chốn này không
phải là việc ngẩu nhiên. Chứng tá của các người lính Roma, từng bị chặt đầu vì
đã từ chối không tiêu diệt các Kitô hữu vào thời bắt đạo Điôclêtianô, luôn hiện
diện trong lời cầu nguyện và suy tư của tôi.
Cuộc sống ẩn sĩ của tôi làm
ngạc nhiên phần nào dân cư ở đây, nơi phần đất Thụy Sĩ này, vì người dân có
khuynh hướng lẫn lộn một vị thánh với người đàng hoàng trong xã hội. Người Công
giáo tốt, đó là người lâu lâu có đi dự thánh lễ vài lần, thế là đủ. Thụy Sĩ là một
xứ có nhiều chuyện nghịch thường; nó vừa là xứ có mức sống giàu có nhất thế
giới, vừa là xứ có tỷ lệ tự tử nhiều nhất. Saint-Exupéry có lần đã viết trong
cuốn Citadelle : "Xin đừng tạo ra một xứ mọi sự hoàn hảo. Hãy tạo ra một
xứ mà mọi sự đều nhiệt thành". Tôi thấy câu này sao mà ăn khớp với tình
cảnh Thụy Sĩ một cách lạ lùng. Người ta muốn đâu đó sạch sẽ, trật tự, nhưng rồi
người ta chết, người ta tự tử ở giữa muôn điều hoàn hảo đó.
Một giai đoạn của một bước đường tôi đi
Sau nhiều giai đoạn khác nhau,
con đường đời của tôi đã đậu bến nơi đây. Hẳn Chúa đã lôi cuốn tôi. Nhưng làm
sao có thể khác được ? vì tâm hồn chúng ta được tạo dựng để hướng về Chúa, và
"mãi bất an cho đến khi nghỉ ngơi nơi Ngài", theo lối diễn tả cao đẹp
của thánh Augustinô . Tôi đã được rửa tội ; và như người ta nói , tôi "đã
được dạy giáo lý", tôi luôn tin Thiên Chúa có thật. Ngay cả khi tôi xa
Ngài, trong cuộc sống và trong cách hành đạo của tôi, thì tôi vẫn xác tín Ngài
có thật. Theo lối suy nghĩ của tôi, ý nghĩ cho rằng không có Thiên Chúa xem ra
không có nghĩa gì cả.
Tuy thế, tôi cũng là một người
trở lại đạo : trong đời tôi, đã có "một thời trước và một thời sau",
theo lối nói rất hay của Charles Péguy. Bước rẽ đó là sự kiện tôi đã gặp gỡ
Chúa sống và ở với tôi. Kỳ thực, đây là khám phá hẳn từng làm cho thánh Gioan
phải chảy nước mắt, và cũng đã làm tôi rúng động : Chúa là Tình yêu.
Trước đó, tôi hiểu được đôi ba
điều trong Kitô giáo. Đặc biệt là thán phục nội dung chặt chẽ của Thánh Kinh, ý
nghĩa phong phú và vững chắc của Giao ước trong lịch sử ơn cứu độ. Thời thanh
thiếu niên, tôi dự lễ đều đặn, ngoài ra không còn đọc kinh gì thêm nữa. Lối
sống đạo ấy cũng dấy lên trong tôi những khao khát về tôn giáo. Nhưng tôi như
còn dừng lại nơi khung trời hiểu biết của lý trí, tôi cần phải viễn du dài lâu,
phải hành hương từ trên đầu xuống đến tim tôi. Cái đầu, như là nơi của các lý
thuyết và các ý kiến, nhưng cũng là đồi Golgotha (Núi Sọ), nơi mà Chúa chết; và
tim, như là đền thờ linh thiêng để gặp gỡ Thiên Chúa hằng sống, "gần gũi
với chúng ta hơn cả chính là chúng ta gần với chính mình".
Hệ luận hữu lý của lối sống
đạo chỉ biết có lý trí đó, là tôi phê bình Giáo Hội, Đức Giáo Hoàng một cách
gay gắt. Năm 1984, tôi đã tẩy chay cuộc thăm viếng Thụy Sĩ của Đức Gioan-Phaolô
II, và mỉa mai cho đó là "suy tôn cá nhân Giáo Hoàng" ! Vì không sống
giáo huấn của Đức Kitô về hôn nhân và phái tính, tôi chỉ còn biết chỉ trích
Giáo Hoàng, kỳ thực Ngài đã lên tiếng nói với tôi điều mà lương tâm luôn thì
thầm bên trong tôi. Bốn năm sau đó, với tư cách là đại biểu của Vatican, tôi
tham dự Hội đồng Đại kết các Giáo Hội tại Genève, chuẩn bị cuộc họp thế giới về
Công lý, Hòa bình và bảo vệ thiên nhiên ở Hán Thành, sau đó làm việc trong Hội
đồng Giáo hoàng Công lý và Hòa bình ở Vatican. Tôi hoàn toàn bước đi một hướng
khác !
Có một hố sâu giữa đầu và tim
tôi, giữa những điều Chúa Kitô đòi hỏi, những điều mà Giáo Hội là thân thể Chúa
truyền lại cho tôi, với cuộc sống hằng ngày của tôi. Nhưng xin hiểu giùm tôi :
hẳn nhiên không phải chủ trương giữa đầu và tim phải xung khắc. Nhưng phải thấy
rõ những tai hại mà một tôn giáo chỉ biết đóng kín trong các lý thuyết có thể
đem lại. Tôi đã sửng sờ chứng kiến biến cố đảo lộn nơi lòng mình khi khám phá
được sự hiện diện của một Thiên Chúa gần tôi, yêu tôi, kêu mời tôi biết và yêu
mến Ngài ! Một Thiên Chúa không những dựng nên tôi nhưng nhất là cứu chuộc tôi.
Một Thiên Chúa hằng sống và ban sự sống. Và cũng là một Thiên Chúa đã đưa Chân
lý vào đời tôi, trả lại cho tôi sự tự do và hạnh phúc mà tôi từng bán đi để đổi
lấy một ít thoải mái vui thích. Vì kinh nghiệm về Chúa gắn liền với kinh nghiệm
về sự khốn cùng, nghèo nàn, ích kỷ của tôi; và kỳ cùng là kinh nghiệm về sự bất
lực căn cơ của con người tôi để thực sự yêu thương, mặc dầu trước đó tôi vẫn
thường nói :" Con yêu Ngài".
Cuộc cách mạng nội tâm này,
điều người ta thường gọi là "cuộc trở lại", đó chính là gặp gỡ được
một Thiên Chúa Tình Yêu. Tôi còn nhớ có một người độ 40 tuổi, sau một cuộc tĩnh
tâm, vừa khóc vừa tâm sự với tôi :"Trước đây tôi là người Công giáo, có
giữ đạo, nhưng không tin". Sự kiện đó có thể hết sức là đúng thật, ngay cả
đối với các linh mục và tu sĩ ! Nhìn nhận có một Thiên Chúa Tạo dựng xét về mặt
hiểu biết, tương đối dễ. Nhưng chân nhận một Thiên Chúa Tình yêu, việc đó phiền
lắm vì đấy là một lời mời gọi trực tiếp đề nghị ta sắp xếp lại đời mình cho hợp
với tình yêu thương này.
Chiêm ngắm Thánh giá
Tình yêu thật, tình yêu tận
hiến mang trọn ý nghĩa nơi Thánh giá. Tôi nhớ là vào giai đoạn đầu cuộc trở lại
của tôi, tôi sống từng giờ, từng giờ suốt cả mấy tháng để ngắm nhìn Thánh giá.
Đúng hơn là ngắm nhìn Chúa Kitô chịu đóng đinh treo trên Thánh giá. Tôi tự nhủ:
"Đấy, tình yêu là thế đấy !"
Ngày kia, bước đi trên đường
phố Paris, tôi gặp một người bụi đời. Sau một lúc trao đổi, anh ta hỏi tôi
:"Anh tin có Chúa sao ? - Vâng, chắc chắn rồi, nhưng còn anh ? - ồ, không
đâu !" - Anh ấy trả lời với tôi như thế. Nhưng rồi, một chốc sau đó, anh
lại hỏi :"Nè, anh là Kitô hữu, vậy chuyện ông Giêsu, có thật hay không
?" Tôi liền giải thích cho ông ta hay về một Đức Kitô thật sự có trong
lịch sử, và việc tiếp nhận mầu nhiệm Chúa Giêsu bằng đức tin. Ông tỏ ra ngạc
nhiên, rúng động, nói lớn :" Vậy mà nói được ! vậy mà nói được !!!"-
Ông lặp lại hoài câu nói này. Tôi hỏi :"Sao ?" - Ông nói lại với tôi
- Anh không thấy sao, ông ấy, người ta đóng đinh vào tay, vào chân mà còn nói
:"Lạy Cha, xin Cha tha cho họ, họ không biết việc họ làm" - Vậy mà
nói được !" - Sau đó một lúc lâu, ông lại nhìn tôi, suy nghĩ, rồi nói :
" Nói thì nói vậy, nhưng tôi ...!"
Kinh nghiệm về tình yêu chịu
đóng đinh và tha thứ này chứa đựng toàn bộ mầu nhiệm Kitô giáo. Chắc chắn là
chỏi tai. Ngay cả như là điên loạn. Nhất là, rất phiền hà. Tôi biết kinh nghiệm
này không thể nào tránh né được, nhưng còn ngại và tìm cách vừa quay mặt vừa
thử đi ngược để tiến đến gần. Cuối cùng, tôi nhảy bước qua, "Xin
Vâng", và đầu hàng. Tôi tin trong cuộc sống của chúng ta, những lý do mình
bám lấy phải có lần cần biết đầu hàng. Những biến cố trong đời tôi hết thảy đều
được ánh sáng này soi dọi : Tình yêu tận hiến đến cùng, đến mức tha thứ. Khó mà
diễn tả bằng lời nói về những gì chất chứa trong mấy lời này.
Tôi nhớ một câu truyện vui :
một linh mục thấy một đứa bé mút ngón tay cái, liền hỏi : "ngon không
?"- Đứa bé rút tay ra khỏi miệng và chìa ra ngay trước mặt linh mục
:" nếm thử đi ! " Cần phải nếm mới biết. Câu trả lời của tôi cũng như
vậy: "Hãy nếm, để biết Chúa tốt dường bao!" Vâng, cần phải nếm thử.
Tình yêu có những đòi hỏi
Tôi cũng khám phá được rằng
tình yêu đòi hỏi rất nhiều. Người ta thường gán tình yêu với tự do. Đúng rồi,
nhưng chưa đủ. Phải thêm Sự thật nữa. Tình yêu, Tự do, Sự thật, đó là ba tiêu
mốc trên bước đường hạnh phúc. Nếu Đức Kitô chết trên thánh giá, đó chỉ vì yêu
thương mà thôi. Đồng thời, Ngài hiến mạng sống một cách tự do. Ngài trao nạp mạng
sống để làm chứng cho Chân lý. Và hơn thế nữa : Ngài chính là Tình yêu có tên
gọi là Sự Thật. Trên Thánh giá, tôi chiêm ngắm Tình yêu trao nạp mình một cách
tự do, không ai cướp mạng sống Ngài cả; một tình yêu cho tất cả một cách nhưng
không, không giữ lại gì hết. Ngài tự hiến để cứu thoát tôi, làm cho tôi tự do.
Ngài làm thay tôi.
Chính nơi cái chết và sự sống
lại của Đức Kitô, chúng ta được trao ban chìa khóa của chính sự tự do chúng ta.
Chỉ có Chúa Kitô mới có thể loại bỏ hết mọi thứ nô lệ xã hội và cá nhân ràng
buộc với tội lỗi. Vâng, chìa khóa hạnh phúc là sự tự do của con cái Thiên Chúa,
tự do được Chúa ban cho chúng ta khi ta sống bởi Đức Kitô và trong Đức Kitô.
Chính Ngài là Nguồn các Mối Phúc. Sứ mạng của Đức Kitô, Đấng tự giới thiệu mình
là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống, đó là giải thoát chúng ta khỏi vòng nô lệ
của sự chết và tội lỗi để thực sự làm cho chúng ta tự do, hướng đến hạnh phúc.
Nỗi khát khao hạnh phúc đầy ắp nơi tâm hồn chúng ta sẽ được thỏa thuê, khi yêu
thương và sự thật được nối kết nơi chúng ta và làm cho chúng ta tự do.
Tôi chứng nghiệm một cuộc cách
mạng nội tâm và "văn hóa" thực sự. Trước đây tôi gắn liền tình yêu
với khoái lạc, tự do với phóng túng, sự thật với lòng thành của mình. Nay trước
Thánh giá, các chữ này tìm lại ý nghĩa thật của chúng. Thánh giá, dấu hiệu của
tự do, nghịch thường thay ! Trên một số núi đồi Thụy Sĩ, thường có trồng một
cây Thánh giá. Tôi nhớ có lần đã cố hết sức, bất chấp nguy hiểm, leo đến đỉnh
núi 4000m; tôi xúc động ôm lấy Thánh giá trên chóp núi này. Thánh giá ấy dạy
chúng ta biết đỉnh cao nhất là đỉnh Tình yêu. Và Đức Kitô ôm lấy chúng ta leo
lên đỉnh cao ấy.
Hoán cải tâm hồn, thay đổi não trạng
Kinh nghiệm về cuộc cách mạng
nội tâm đi kèm với đổi thay lối suy tư
của tôi. Nhờ vậy, tôi có thể phân tích các vấn đề cần phải đương đầu một cách
khác, các vấn đề chính trị, kinh tế, pháp luật, tranh chấp khác nhau, trong
thời gian thực tập luật sư và chưởng khế hoặc trong khuôn khổ các sinh hoạt
chính trị. Vụ ly dị của ông bà X không còn là "một vụ án" hoặc
"một hồ sơ", tôi nhận ra những khổ đau con người, những thiếu vắng
tình yêu từ đầu cũng như ở giai đoạn cuối. Các cuộc tranh luận quốc hội về ngân
sách quốc gia không còn là đọc các con số và chia phân từng phần, từng mục. Có
những ưu tiên trong đó soi sáng cho quyết định của tôi. Cuối cùng tôi nhận thức
được rằng bên trên các trường hợp cụ thể mà chúng ta đề cập đến và phải giải
quyết, thực sự chúng ta đang sống một cuộc khủng hoảng tinh thần. Và tôi chợt
hiểu ra rằng, nếu cần đến một giải đáp cần phải mang lại cho thế giới ngày nay,
thì đó chính là yêu thương và làm cho kẻ khác mến chuộng tình yêu. Và tình yêu
có một khuôn mặt: Khuôn mặt của Đức
Giêsu.
Những sinh hoạt dấn thân chính
trị của tôi trong cương vị thư ký Đảng Dân chủ Thiên Chúa giáo của Thụy Sĩ vùng
nói tiếng Pháp, và với tư cách là dân biểu dự khuyết đã từng phát sinh từ tâm
tình đại độ, nhưng cũng có một phần do tham vọng nào đó nơi tôi. Tôi thiếu một
loại chìa khóa để mở ra một chiều kích khác trong các nỗ lực này. Những ý thức
hệ, quyền lợi trước mắt, các nhóm áp lực, lòng vị kỷ che khuất lập trường đứng
đắn biết lưu tâm đến công ích. Khi lấy các quyết định, kỳ thực tôi không thực
sự hoàn toàn được tự do : Không có một bậc thang các giá trị rõ rệt và chính
xác, ta không có thể nào phân định tốt, xấu trong lãnh vực chính trị và hành
động cho công ích. Chỉ có ân sủng mới
giúp ta có những quyết định cần thiết, một cách can đảm. Thái độ vua Baudouin
nước Bỉ về luật phá thai đáng lưu ý : vua đã từ chối ký một đạo luật đi ngược
với lương tâm.
Ỏấ cấp độ trách nhiệm của tôi,
tôi đã từng đọc nhiều bài diễn văn. Bấy giờ
học thuyết xã hội của Giáo Hội về các thực tại của thế giới đã soi dẫn
và giúp tôi thay đổi nội dung của các lời phát biểu. Lúc đầu tôi có khuynh
hướng tự do chủ nghĩa, nhưng rồi tôi bắt đầu biết cân bằng đòi hỏi tự do này,
kể cả trong địa hạt kinh tế, để nhận ra tầm quan trọng của vấn đề xã hội.
Ngày nay, theo tôi, điều đáng
lo ngại là chính trị chịu áp lực nặng nề của kinh tế chi phối. Văn hóa biến mất
vì đâu đâu cũng đặt kinh tế làm yếu tố quyết định ưu tiên; văn hóa nay trở
thành một hiện tượng kitsch lỗi thời, phù phiếm không giúp gì cho việc đào tạo
và hoàn thành nhân cách. Người ta cố làm cho ta tin rằng khủng hoảng kinh tế
không cách gì giải quyết được, ngoại trừ thiện chí của những người làm công.
Bên trong cuộc sống kinh tế, càng ngày lại càng phải chứng kiến tình trạng độc
tài của tiền tệ và tài chánh đè nặng trên lãnh vực sản xuất và cải biến đồ vật
cũng như dịch vụ. Đối với tôi, phương cách duy nhất để thoát ra khỏi ngỏ bí
này, là phải ý thức rằng, hậu cảnh kinh tế và chính trị là vấn đề con người
toàn diện và là vấn đề của mọi người. Trong nỗ lực ý thức này cái nhìn của Kitô
hữu không thể thiếu vắng được.
Cuộc chiến siêu nhiên
Thỏa hiệp âm thầm giữa Đức
Kitô và tôi nảy sinh, và hẳn nhiên thay đổi mọi sự. Cái nhìn mới, con tim mới.
Không phải tất cả nay đã tuyệt vời. Ngày ngày tôi kinh nghiệm được sự khốn khổ,
nghèo nàn và mối bất lực của tôi để yêu thương đúng như Chúa muốn. Nhưng tôi
lại còn có cảm nghiệm kỳ diệu về ân sủng nữa. Đó là việc Đức Kitô thực hiện
trong đời tôi những điều mà sức người không thể tưởng tượng nổi. Điều không thể
tưởng tượng đó là việc làm cho tôi hoán cải mỗi ngày. Và chính Chúa Giêsu đã
làm điều ấy.
Và điều tôi cũng khám phá được
nữa, là ngoài thực tại vật chất, ngoài các biến cố của đời sống, còn có một
thực tại siêu nhiên ẩn dấu bên trong. Hoặc đúng hơn là điều kỳ bí đang khai mở.
Thực tại siêu nhiên này, kỳ thực, còn có tính cách quyết định hơn thực tại hữu
hình. Tôi có thể gọi sự kiện đó bằng danh từ siêu thực Kitô giáo. Ngày nay, khi
nói đến chủ trương về thực tại, người ta hiểu là chủ trương thực nghiệm, là một
lối tiếp cận hoàn toàn duy vật về các vấn đề đặt ra. Nhưng lối tiếp cận này
hoàn toàn che khuất thực tại siêu nhiên, không thể thấy, không thể sờ đụng,
nhưng lại hết sức là thật. Có nguyên một thế giới, thế giới của Thiên Chúa, của
Thánh Thần, mà giác quan chúng ta không tiếp cận được, nhưng nó ảnh hưởng trên
cuộc sống hữu hình và điều hành cuộc sống ấy.
Thánh Phaolô viết thư cho cộng
đoàn Êphêsô như sau :"Chúng ta không phải chiến đấu chống lại kẻ thù xương
thịt trước mắt, nhưng chống lại các vương quyền, các quyền lực" (Eph 6,
12). Bên ngoài các hiện tượng mắt ta thấy, có một cuộc chiến siêu nhiên xảy ra
ngay giữa cuộc sống chúng ta, thua hay được luôn là tâm hồn con người. Không
biết đến cuộc chiến này, có nghĩa là bị đấm đá tứ bề mà không biết do từ đâu
phát sinh; là mãi chịu đựng các biến cố dồn dập xảy đến mà không cách chi nắm
bắt được thách đố của nó. Ta sẽ vô cùng kinh ngạc khi chứng kiến được con người
cảm thấy hết sức nhẹ nhỏm như được giải thoát khi may mắn biết đến cuộc chiến
siêu nhiên này; họ sẽ chộp nắm bắt được căn do của những gì u uẩn, kỳ quái và
hổn độn sâu xa trong cuộc đời họ. Khám phá này mở ra một cái nhìn khác về các
cuộc tranh chấp và khó khăn của cuộc sống.
Sống bằng Phúc Âm
Biết đến cuộc chiến này là một
việc; dấn thân chiến đấu với những vũ khí tốt lại là việc khác. Thánh Phaolô
diễn tả hành trang vũ khí của người dũng sĩ siêu nhiên thế này : lấy chân lý
làm dây buộc bụng, công lý làm áo giáp, đức tin làm thuẫn đỡ, ơn cứu độ làm nón
đồng, Thánh Thần là Lời Chúa làm gươm giáo, và nhiệt tâm truyền bá Tin Mừng hòa
bình buộc vào chân. Bấy giờ tình yêu sẽ chiến thắng mọi uy lực của sự chết và
sự hủy diệt.
Trong tinh thần đó, hai câu
nói của Phúc âm thánh Gioan làm tôi chấn động. Và từ đấy không bao giờ rời tôi.
Câu nói đầu là :"Ngoài Thầy, các con không làm được gì hết" (Gioan
15, 5). Tôi lặp đi lặp lại suốt ngày. Nó là lương thực cho việc làm, công cuộc
tông đồ và nhất là việc cầu nguyện của tôi. Câu thứ hai không ngừng thôi thúc
tôi :"Đức Giêsu đã yêu những người của Ngài còn ở trong trần gian, Ngài
yêu họ cho đến cùng" (Gioan 13, 1). "Cho đến cùng" : hết mình.
Và không có gì cản được. Đi với Chúa, với lòng yêu thương đến mức nào ? câu trả
lời hết sức rõ : "Đến cùng". Phải tận hiến hoàn toàn, vì những gì ta
còn giữ cho ta đời đời sẽ hư mất.
Kitô giáo tràn lan trên địa
cầu vì khởi đầu Kitô hữu đã hiểu Phúc Âm đúng từng chữ và đã sống như vậy.
Thánh Phanxicô Assisi đã làm đảo lộn cả thời Trung cổ, vì nếp sống ngài làm cho
một số khó chịu - nhưng lại rất đúng với Phúc Âm -; ngài đã làm rung chuyển nếp
sinh hoạt (establishment) Kitô giáo, giáo sĩ và giáo dân. Ngài đã biết mang lại
sự tươi mát của Phúc Âm trong một thế giới ngái ngủ, yếu bệnh vì tiền tài và
quyền lực. Và hôm nay, chúng ta muốn Phúc Âm được biết đến, được tiếp nhận, sẽ
không có con đường nào khác ngoài nguồn căn này. Mọi cái lung tung khác chỉ là
văn chương, ảo ảnh và nhất là chán ngán hết biết tin vào đâu. Nếu Đức Giêsu
đang sống, nếu điều Ngài nói với ta là sự thật, nếu cuộc sống đời đời đúng là
chân trời cho đời mình, thì điều tôi tin, tôi phải sống nghĩa là tôi phải thực
thi Phúc Âm. Chỉ có chân lý này mới thực sự đổi thay thế giới.
Muốn được như vậy, ta cần lắng
nghe tiếng kêu của những người nghèo. Họ là những người dạy dỗ ta trong lúc
khốn đốn này. Tôi luôn chú tâm để nghe từng tiếng nói của mỗi một người nghèo.
Và lắm lúc tự hỏi không biết lời nói tràng giang đại hải của nhiều Kitô hữu -
linh mục, tu sĩ hoặc giáo dân - về mối yêu thương đặc biệt dành cho người nghèo
có phải chỉ là một lời nói để mà nói vậy thôi hay không. Trong cộng đoàn tôi
sống hôm nay, chúng tôi vui sướng được tiếp đón những "con người bầm
dập", những kẻ nhỡ chuyển tàu mà người ta gọi là "tiến bộ" và
"đạt năng xuất". Biết bao lần tôi từng nghe những nhận định của Kitô
hữu đại loại thế này : "Anh thấy thứ thanh niên đó không, có thấy đầu tóc
đó không ? Thứ người gì mà kỳ quặc !" Sao kỳ vậy ! Sao ngạo đời vậy ! Làm
như có một tác phong phải đúng đắn xét về mặt tôn giáo không khác gì một loại
tác phong văn minh đúng đắn thường được nhắc đến lúc này ! Có lúc người ta dằn
không nỗi, muốn hét lên .... Kỳ thực, thì chúng ta đã từng tiếp nhận nhiều lời
khuyến cáo, nhiều bài học nơi lớp người "kỳ quặc" này !
Tôi cũng nghĩ đến những người
khiêm nhượng tự đáy lòng, đôi khi họ mang những trách nhiệm quan trọng trong xã
hội và trong sinh hoạt kinh tế. Nhìn họ quỳ gối, khẩn xin Chúa giúp họ và tạ ơn
Ngài đã hiện diện trong cuộc đời họ, cảnh tượng đó giáo dục tôi ! Tôi thầm cầu
nguyện xin Chúa soi sáng tâm hồn mọi người.
Những lần gặp gỡ có tính cách quyết định
Có nhiều cuộc gặp gỡ có tính
cách quyết định trong đời tôi. Biết bao người tôi biết hoặc tôi chưa từng biết,
đã hiện diện trên bước đường đời của tôi như một dấu chỉ của Chúa Quan phòng,
và đã giúp tôi lớn lên ...Không có một cuộc gặp gỡ nào, một người nào, mà không
từng mang lại cho tôi, cách này hay cách khác, cái gì đó; mặc khải cho tôi một
nấc nào đó về mầu nhiệm của tâm hồn con người và tình yêu của Chúa. Nhiều bạn
bè thân cận tôi, vừa khiêm tốn vừa trí thức, tha thiết mến yêu Chúa, đã biết
cách truyền cho tôi ý nghĩa của mầu nhiệm và giúp tôi thèm khát hạnh phúc phát
sinh từ cuộc sống thân mật của họ với Chúa. Họ đã thúc đẩy tôi tìm hiểu các
thánh và các vị thần bí.
Trong những cuộc gặp gỡ làm
rúng động đức tin của tôi hơn cả, tôi cảm động nhớ đến những người cựu tù nhân
các trại cải tạo tập trung, các trại lao công cưỡng bách tại Việt Nam. Họ nhắc
lại cuộc sống nội tâm, những mối tâm sự lòng bên lòng với Chúa, ngay giữa những
cảnh tàn khóc, khổ đau muôn nghìn, tra tấn kinh hoàng. Nơi địa ngục trần gian
này, họ vẫn tràn ngập hân hoan. Bấy giờ, tôi biết rằng đức tin từng đã giúp họ
kiên cường đứng vững, khi người ta muốn xô ngã họ xuống đất, đức tin ấy chân
thật; lời của Đức Kitô hứa hiện diện giữa chúng ta cho đến tận thế và ban cho
chúng ta sức mạnh từng giây phút, lời hứa ấy thực sự đã được thực hiện.
Trên khuôn mặt rạng rỡ của họ,
tôi chứng kiến tận mắt hình ảnh sống động cuộc chiến thắng của Đức Kitô trên
tội lỗi và sự chết. Cuộc sống nội tâm thân mật với Chúa, uy lực của cầu nguyện
nơi họ dần dần thúc đẩy tôi xác tín rằng cuộc tử đạo nơi các trại tập trung
này, cũng như những nơi chốn khác nữa, đã từng lay chuyển một cách dứt khoát bức
tường cộng sản.
Cuộc sống cầu nguyện biểu lộ
lòng yêu thương và dâng lên làm của lễ, cuộc đời tận hiến của họ đã làm đảo lộn
tất cả. Chính họ, đúng chính họ là những nhà cách mạng thực sự.
Sự thật của Kitô giáo linh
hoạt nơi hành động của tất cả những người bạn trung thành với Đức Kitô. Khi tôi
thấy những bằng hữu người Balan, trí thức nổi bật, can cường từ chối những chức
vụ cao cấp, quan trọng vì muốn trung thành với Chúa Giêsu Kitô; khi chứng kiến
những người bạn khác sống lao đao trong những căn phòng nhỏ bé, thích chấp nhận
tình cảnh tạm bợ này hơn là đồng lỏa, mập mờ; khi đối diện với những nhà bác
học Lituania mặt mày rạng rỡ sau khi bị nhốt trong trại giam suốt tám đến mười
năm; khi nghe được lời nói của vị linh mục Việt Nam, đang ngồi trên xe lăn, nạn
nhân của nhiều lần tra tấn : "tôi sung sướng, tôi vẫn trung thành",
bấy giờ đức tin trở nên hiển nhiên và là niềm hoan lạc cho tôi.
Tôi nhận ra được mối liên hệ
trung thực giữa Phúc Âm mà tôi đọc nhưng chưa từng được chứng nghiệm và phương
cách mà bạn bè tôi đã chọn để làm chứng về sự trung kiên của họ. Bấy giờ tôi
thực sự cảm nghiệm rằng không thể thoái thác với các đòi hỏi của Phúc Âm được
nữa. Những đòi hỏi đó có một khuôn mặt, một màu máu huyết mà anh chị tôi đã
từng đổ ra. Tôi cảm thấy khao khát được đi theo bước chân của Chúa Kitô hơn
nữa. Cuộc sống của họ đối với tôi như một tát tai thật chát chúa, nhưng mang
lại ơn ích, đập vào các cộng đoàn Kitô hữu tây phương của chúng ta; các cộng
đoàn của chúng ta phải chăng được tổ chức chu đáo, lắm lúc khá đạo hạnh, nhưng
thường thường quá ổn cố, rụt rè, hửng hờ và ngái ngủ. Chính tôi là thành phần
của các cộng đoàn này, và nên tôi cũng thấy mình đang nằm trong chăn đó!
Mẹ Têrêxa
Kinh nghiệm ở Ấn Độ và cuộc
gặp gỡ với Mẹ Têrêxa Calcutta cũng ấn dấu quyết định trong đời tôi. Tôi muốn
nêu lên đây hai kỷ niệm mà tôi được sống với Mẹ Têrêxa. Có một buổi sáng nọ,
tôi đi lên nhà nguyện của mấy Dì Phước. Mẹ Têrêxa lúc ấy đang quỳ trước Thánh
Thể. Sự thân mật của Mẹ với Chúa Giêsu Thánh Thể đã làm cho tôi như được đưa
lên tầng trời xanh. Và tôi hiểu được đâu là bí quyết của việc Mẹ làm, đâu là
nguồn suối linh hoạt nơi Mẹ : đó là Thánh Thể. Kinh nghiệm thứ hai, đó là lần
giúp một người sắp từ trần, ở cạnh Mẹ. Tôi nhớ lúc cầu nguyện chung, và nhất là
lúc Mẹ thả tay tôi và tay người chết, Mẹ tự nhiên đứng thẳng dậy, đứng yên một
vài phút, sau đó nhìn tôi mỉm cười và nói :" He's got his ticket to
heaven" nghĩa là : ông đã có vé vào thiên đàng rồi. ễ đây, một lần nữa,
cuộc sống đời đời bung ra như một cái gì thực sự trước mắt. Cõi thực này cư ngụ nơi tâm hồn Mẹ, và tôi thấy rõ Mẹ
Têrêxa như một người phụ nữ đang hành hương, lên đường về trời, là quê thật của
Mẹ.
May mắn cho Thụy Sĩ, quê tôi,
có được hai cộng đoàn các vị Truyền giáo Bác ái, ở Zurich và ở Lausanne ! Nhưng
nghịch thường thay, hai Cộng đoàn này lại ở vào một xứ Thụy Sĩ giàu có, khi ai
cũng biết các nữ tu này chỉ đi đến các xứ nghèo nhất ! Tôi có duyên được đến
thăm các chị Truyền giáo Bác ái này sáu lần, có lần đi riêng, có lần đi với các
nhóm trẻ. Mỗi lần, là một kinh nghiệm choáng váng và mang lại ơn ích. Ân phúc
thay cho chúng tôi khi có được cơ hội đặt lại vấn đề phong cách sạch sẽ quá mức
theo lối Thụy Sĩ của chúng tôi, và nhìn xem đâu là nhu cầu khẩn thiết nhất của
chúng ta, kể cả trong Giáo Hội, trước nhân chứng của cảnh nghèo khó mà Calcutta
đang gánh chịu, và trước chứng nhân nghèo khó mà các nữ tu Truyền giáo thề
nguyền chọn lựa và gắn bó vào nếp sống của các chị ! Chúa Thánh Thần không dạy
chúng ta qua tấm gương của nữ tu này hay sao !
II
Cuộc sống ẩn dật
Tôi tham gia trong hai năm
rưởi vào một ủy ban chuẩn bị hội nghị Đaị Kết thế giới với chủ đề "Công
lý, Hòa bình và bảo vệ thiên nhiên". Cuộc hội nghị ấy được tổ chức tại Hán
Thành năm 1990. Trong khuôn khổ cuộc
chuẩn bị ấy, tôi có dịp sống qua nhiều hoàn cảnh rất đẹp, và nhiều biến cố đau
lòng. Tôi sung sướng được chứng kiến nỗi khát khao của Kitô hữu muốn mang đến
một chứng tá chung, trong một thế giới lạc bước đang tìm hướng. Đồng thời, tôi
bị dị ứng vì một sự phân cách nào đó giữa những lời chúng ta nói về Công lý và
Hoà bình và thực trạng chúng ta sống. Một cuộc gặp gỡ như vậy mà lại được tổ
chức trong một khách sạn "bốn sao"... để bàn về tình cảnh nghèo khổ
trên thế giới !
Sự nghịch lý này thực sự làm
tôi nhức nhối. Hẳn nhiên tôi vẫn tự nhủ cần phải xét nhiều mặt của vấn đề. Nhất
là, câu trả lời của Mẹ Têrêxa cho một nhà báo phỏng vấn Mẹ, sực nẩy đến trong
trí tôi: "Khi Mẹ chứng kiến những gì đang xảy ra trong Giáo Hội và trên
thế giới, tất cả những phản chứng như thế, phải cần thay đổi gì đây để sự thể
được tốt hơn ? " Mẹ nhìn vào mắt người ký giả, với cái nhìn vừa sắc bén
vừa đầy yêu thương, Mẹ trả lời : " điều cần thay đổi là anh và tôi, ông
bạn ơi! đúng thế, anh và tôi cần phải thay đổi!"
Phản chứng của kẻ khác nhắc
tôi nhớ đến cuộc phản chứng của chính tôi, và làm cho tôi muốn trở về căn nền
của Phúc Âm. Những người bụi đời ở Roma và các nơi đã dạy tôi rất nhiều về đức
khó nghèo và niềm vui theo tin thần Phúc Âm. Tôi nhớ đến anh Yassim, một Kitô
hữu người gốc làng của Gioan Phép rửa, làng Ain Karem. Anh sống ở một gốc vỉa
hè ở Roma, đằng trước mặt nhà thờ. Một ngày nọ, trời rất rét, tôi hỏi anh có
chỗ nào trú ngụ không. Anh cho hay người ta không cho anh tá túc ở dưỡng đường vì anh còn quá trẻ. Tôi
liền giúi cho anh chút tiền để anh có thể ở khách sạn vài ngày. Chiều đến, tôi
đi ngang lại đường cũ ấy và thấy anh lại chuẩn bị ngủ ngoài trời lạnh thêm một
đêm nữa. Tôi ngạc nhiên, hỏi anh có phải khách sạn không cho anh ở không. Anh
trả lời: "Không, nhưng sáng nay trong thánh lễ người ta xin tiền cho chủng
viện địa phận Roma. Người ta cần các linh mục thánh thiện. Nên tôi cúng hết
tiền cho họ rồi. Tôi còn chịu đựng được vài đêm ngoài trời mà !".
Tôi tin chắc rằng cải cách
thật sự Giáo Hội là việc làm của các thánh. Công lao của thánh Phanxicô Assisi
có tính cách mạng, và cống hiến nhiều cho sự canh tân Giáo Hội hơn là việc làm
của các ủy ban canh tân mục vụ hoặc của những ai mang danh hiệu là "nhà
cải cách". Chúng ta còn cần lối sống nghèo bên ngoài. Trước tiên, cuộc
sống nghèo về mặt vật chất giúp ta có một khoảng trống để Chúa hiện diện, để ta
quay lại với Ngài nhiều hơn nữa. Đó là dấu chỉ có tính cách tiên tri giúp ta
thấy Nước Chúa hiện diện. Thấy được một thế giới không qua đi, ở giữa một thế
giới chóng qua. Dấu chỉ tiên tri ấy phải sáng rực lên nơi một lối chọn lựa đời
sống thanh bạch, nhưng vô cùng phong phú ...
Một người tôi gặp trên tàu,
một lần nào đó, đã hỏi về đời tư của tôi. Để tóm gọn, tôi nhắc đến những lời
khấn về trong sạch, vâng lời và nghèo khó, và nói thêm là tôi cũng cố sức mà
tập sống như vậy. Người đối diện tôi cắt ngay: "Khấn sống nghèo khó ? Anh
muốn nói là lời khấn sống giàu có chứ !" Tôi ngạc nhiên về nhận xét này
nên tìm cách nói về một lối sống nghèo khó tương đối. Người ấy trả lời liền :"Tôi
không muốn nói vậy. Tôi nói về lời khấn giàu có vì ai có Chúa là có tất cả
!"
Trong Thượng Hội đồng các Giám
mục về đời sống tận hiến, Hồng Y Etchegaray, người mà tôi được vinh dự làm việc
chung ở Roma, đã phát biểu về sự khẩn thiết phải phục hoạt một lối sống nghèo
khó thực sự và tận căn trong đời sống tận hiến; lời phát biểu đáng lưu ý ấy như
sau : "Hơn bao giờ hết, ngày nay cuộc sống tu trì cần làm chứng cho đức
nghèo khó của Phúc Âm. Hẳn đó là thách đố lớn
nhất cho Giáo Hội và là nhu cầu khẩn thiết nhất cho thế giới (...) Cuộc sống
nghèo theo Phúc Âm là trắc nghiệm khó nhất và chắc nhất về sự trung thực của
việc truyền bá Phúc Âm."
Nghèo khó, tự do và liên đới
Trước khi đi
vào ẩn viện, tôi đã từng nghe được lời mời gọi để chỉ biết phó thác vào Chúa
Quan phòng, một sự quan phòng cũng được thể hiện qua lòng đại độ giúp đỡ người
chung quanh. Tôi có một người bạn lo cho các chi phí về quỉ bảo hiểm sức khỏe.
Một số bạn khác chia một phần củi đốt sưởi mùa đông, ngoài ra tôi phải tự chặt
lấy. Trong thời gian năm năm sống trong ẩn viện, tôi không bao giờ mua vật gì
để ăn cả. Tôi ăn bất cứ gì người ta mang cho. Các bữa ăn kỳ thực cũng không
thay đổi chi mấy. Nhưng thật là tự do khi có thể tự thấy đủ và thoải mái về cái
mình có hoặc cái mình không có ! Có lúc người ta cho nhiều, cũng có nhiều lần
ít hơn. Có lần trong mười ngày, tôi chỉ còn mấy trái lê để ăn. Lần khác, cả
tuần chỉ có một chén mật ong - nhưng mật thật ngon ! Và nhiều lần khác, người
ta cho dư thừa đến độ cho lại người khác.
Tôi nhớ có
chuyện nhỏ này. Trong nhiều tuần lễ, không ai cho bánh mì cả, và tôi kể lại cho
Chúa việc đó trong lời cầu nguyện của tôi. Đến ngày thứ bảy, một người đàn bà
gõ cửa và vừa nói vừa xin lỗi tôi :"Không biết tôi có nên nói ra không,
nhưng với anh, thì tôi nói được. Tôi đang cầu nguyện trong nhà thờ bên dưới
đồng bằng. Rồi một lúc, tôi có cảm tưởng Chúa bảo tôi đem bánh lên cho anh. Nên
tôi mang cho anh khúc bánh này đây." Tôi không biết cách gì để nói hết
được khúc bánh đó quan hệ như thế nào đối với tôi ...
Tôi ngạc
nhiên đến ngỡ ngàng về cử chỉ ân cần của Chúa, ngay cả trong những chi tiết nhỏ
như của cuộc sống hằng ngày. Càng ngày tôi càng sửng sờ khám phá ra việc Chúa
lo lắng cho con cái Ngài và lưu tâm cả đến những chi tiết nhỏ nhặt. Đối lại,
phần tôi, cảm nhận đó giúp tôi tin tưởng và tạ ơn. Đó là toàn bộ sứ điệp của
thánh Têrêxa Lisieux, tiến sĩ Giáo hội, dạy ta về con đường phó thác hoàn toàn
trong tay Chúa là Cha.
Nghèo khó
không phải là cùng đích tự tại. Nó tạo cho ta dễ dàng tìm gặp mối tương giao
với Thiên Chúa, vì nó cắt đứt mối ràng buộc vào của cải vật chất vô ích. Khó mà
rút đi được của cải vật chất. Thật thế, người ta có thể bám vào một gia sản lớn
cũng như có thể bám vào một căn lều nhỏ xíu như căn lều tôi đang ở ! hoặc ngay
cả bám vào một tràng chuỗi đẹp !
Nhưng cuộc
sống nghèo khổ tương đối mà tôi cố gắng sống đối với tôi trước hết là một mối
liên đới với tất cả những người nghèo mà tôi
đã gặp qua. Hẳn nhiên, tôi còn giàu có hơn hằng triệu anh chị em tôi :
tôi có một mái nhà, có củi, và có một lò sưởi để có hơi ấm vào mùa đông, có
thức ăn mà không lo lắng chi. Tuy thế, đời sống mà tôi chọn lựa giúp tôi cảm
thấy mình gần họ hơn và cầu nguyện cho họ. Tôi đi được vào tâm tình liên đới,
thực hiện cụ thể mối tình này với những người thiếu thốn các phương tiện vật
chất.
Tĩnh mịch nhưng không cô đơn
Tôi khám phá
lại các mùa trong năm khi đặt chân đến ẩn viện, vì lúc ấy mùa đông; thật thế,
trước đây tôi hầu như quên rằng mùa đông trời lạnh ! Mãi du lịch đây đó trên
thế giới, đi từ lục địa này tới lục địa khác, sống với tiện nghi tân kỳ ngày
nay, chẳng mấy khi người ta lưu ý tới các mùa. Tôi cũng khám phá được niềm vui
của mùa xuân như hình ảnh của Phục sinh. Sức sống kỳ diệu ấy vươn lên, vừa uy
dũng vừa dịu dàng, đẹp và dòn mỏng, mạnh mẽ và tràn đầy hy vọng ! Gần gũi với thiên
nhiên quan trọng lắm, đấy vừa là trường dạy con người bén rễ với thực tại vừa
là nguồn suối đem lại bao kỳ diệu. Tôi yên lặng từng buổi lâu để chiêm ngắm
những công trình của Chúa nơi thiên nhiên. Cám ơn Ngài, là tác giả của mọi cảnh
vật ấy. Toàn vũ trụ, thiên nhiên được tái tạo để trở thành tượng trưng hữu hình
của Thiên Chúa vô hình.
Mọi vật nói
với tôi về Chúa. Và một Thiên Chúa yêu thương. Cuộc sống tĩnh mịch của tôi nhờ
vậy thành chốn cư ngụ, Chúa hiện diện với tôi. Và quan trọng hơn cả đối với tôi
là được ở cần kề với Chúa, lòng bên lòng. Cuộc sống thân mật với Chúa càng dồi
dào, ơn gọi của tôi cũng có ý nghĩa và trần thế ngập đầy ơn sủng của Ngài.
Trước khi đến cư ngụ đây, tôi thấy ẩn viện núi Đức Bà Scex như là nơi tôi mơ
ước để thực hiện lời Chúa nói với tôi. Và câu nhắn của Mẹ Maria "hãy làm
điều Ngài dạy" càng lúc càng thấy như là một sự hiển nhiên, phiền toái
thật nhưng không cưỡng được.
Dần dần tôi
xác tín sâu xa rằng chỉ có việc trở lại của mỗi người mới có thể là nguồn suối
cho nỗ lực đổi thay thế giới. Thánh Têrêxa Avila thường kể lại chuyện này
:"Một nhà bác học đã nói : Hãy cho tôi một đòn bẫy, một điểm tựa, tôi sẽ
đẩy được quả địa cầu". Điều mà Archimède đã không có thể có được, vì lời
của ông thuần vật chất, còn các thánh có được toàn bộ. Họ có Chúa Toàn năng làm
điểm tựa; lời cầu nguyện làm đòn bẩy; vì thế các thánh còn đang chiến đấu cố
bật trái đất lên, và các thánh tương lai sẽ nâng bổng trái đất ấy. " Nếu
tôi sống cuộc sống ẩn tu và ao ước tiếp tục cuộc sống ấy, đó là vì Chúa, và vì
thế giới chứ không phải cho riêng tôi. Tôi không ở đây để co rúm lại trong cái
võ của bản thân tôi, mặc dầu thái độ ấy còn rình rập cám dỗ tôi.
Một cuộc sống chuyên tâm cầu nguyện
Làm sao diễn
tả cuộc sống tôi bây giờ? Thật khó. Tôi
cố tập chú sinh hoạt của tôi chung quanh công việc cầu nguyện. Các khoảnh khắc
cầu nguyện làm nhịp cho nếp sống ngày ngày : tôi sung sướng có được ba giờ chầu
Thánh Thể; tham dự Thánh lễ hằng ngày; lần hạt; và đọc lời Chúa lúc ban sáng.
Những giây
phút ấy cho phép tôi hướng về Đức Kitô, thường xuyên trở lại với Ngài với cả
tâm tình của tôi. Còn Ngài, Ngài đâu có rời tôi giây phút nào. Và tôi, thì rất
dễ xa Ngài muôn vạn dặm ... Mục đích của các buổi cầu nguyện, là gặp Chúa trong
mọi sự như lời của thánh Ignatiô Loyola. Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu cũng nói
rằng ta chắc chắn có thể gặp được Chúa trong nhà bếp cũng như trong nhà nguyện.
Và sự hiện
diện của Chúa sẽ làm cho muôn sự bình thường trở thành những điều kỳ diệu. Cuộc
sống thân mật này với Chúa, cuộc sống thân mật phát xuất từ việc cầu nguyện cải
biến mọi sự. Người ta thường nói về thánh Phanxicô Assisi là ngài không cầu
nguyện, nhưng ngài là sự cầu nguyện.
Khám phá lại Thánh Thể
Sự hiện diện
thực sự của Đức Kitô trong bí tích Thánh Thể là một trong những kinh nghiệm làm
tôi choáng váng. Từ đấy, không lạ gì về việc đời tôi tập chú vào Thánh Thể. Ba
ngày sau khi tôi đến ẩn viện, người ta đã đến gõ cửa. Người ta càng đến, thì
nhu cầu chầu Thánh Thể càng thôi thúc tôi. Thánh Thể là Chúa Giêsu. Và Chúa
Giêsu là Thiên Chúa. Đó là tất cả đối với tôi. Làm sao có thể diễn tả rõ ràng
hơn nữa đây ?
Những kẻ khôn
ngoan thông thái thường thấy khó mà hiểu đời sống Thánh Thể của tôi, nhưng kỳ
thực cuộc sống này đã nằm sâu trong truyền thống được Thánh Thần tài bồi qua
nhiều thế kỷ. Những kẻ bé nhỏ, đơn sơ hiểu tức khắc. Tôi nghĩ đến những lúc
chầu Thánh Thể với các bạn thiếu nhi. Nghĩ đến những đêm dài trước Thánh Thể
đặt trong nhà nguyện, thường là vào tiết giá lạnh của mùa đông. Các bạn trẻ,
nhiều bạn đôi khi rất xa lạ với Đức Kitô, cũng đến âm thầm cầu nguyện với chúng
tôi. Biết bao kỳ diệu đã xảy đến nơi các tâm hồn này, trong khung cảnh tĩnh
mịch của nhà nguyện ! Biết bao vết thương tâm hồn được chữa lành, biết bao cuộc
cải hóa trước Thánh Thể.
Một ngày kia
làm linh mục ? Tại sao không. Hẳn đó là một ao ước thầm kín của lòng tôi. Nhưng
tôi biết chắc rằng đó không phải là điều Chúa muốn cho tôi hôm nay. Làm linh
mục để làm người của Thánh Thể và của thứ tha. Ngoài ra gì khác nữa. Giống như
lời của Cha Charles de Foucauld trong sa mạc :"Tôi muốn làm linh mục để
chiếu tỏa mầu nhiệm Thánh Thể ". Đơn sơ chỉ để thực hiện điều đó. Nâng cao
Thánh Thể để ánh sáng Đức Kitô chiếu tỏa trên toàn thế giới ... đúng như thế !
Cần phải lặp lại lời này : Linh mục phải là người của Thánh Thể. Còn những cái
khác, là thêm vào thôi.
Khủng hoảng
hôm nay về ơn gọi trong Giáo Hội Công giáo đối với tôi như đi liền với tình
trạng lãng quên ý nghĩa Thánh Thể. Tôi rất đau khổ khi thấy phong cách mà người ta đôi khi đối xử với Thánh Thể!
Thiếu tế nhị, ân cần, cung kính đối với Chúa Kitô đang hiện diện... Tất cả những lý thuyết không bao giờ bằng một
cử chỉ thờ kính hoặc yêu thương.
Trong Thánh
Thể, tôi cảm nhận thực sự có một dấu chỉ mà Chúa muốn chúng ta hiểu. Dấu chỉ đó
là việc chúng ta đã quá phức tạp, còn Chúa lại muốn chúng ta đơn sơ hơn. Còn gì
đơn sơ hơn một mẩu bánh - Mình Thánh Chúa - Nhưng đồng thời có gì cao cả hơn ?
Mầu nhiệm thay ! Chính Chúa, thực sự hiện diện, nơi ấy. Hiện diện hoàn toàn;
thật choáng váng. Các nhà thông thái tranh luận; những kẻ nghèo khó lạy thờ.
Trong Thánh Thể, mọi sự đều đơn sơ, đạm bạc, trong sáng, trần truồng. Chúa muốn
làm cho chúng ta thành đơn sơ khi chầu Thánh Thể. Việc cổ động chầu Thánh Thể
nảy sinh trong các cộng đoàn mới như các Tu sĩ truyền giáo Bác ái, cộng đoàn
các Mối phúc, Huynh đệ thánh Gioan, Emmanuel, không phải là việc ngẫu nhiên. Ai
hiểu được thì hiểu !
Sự việc này
làm tôi nghĩ đến cô Maria, mười lăm tuổi, trong một làng nhỏ tại Libăng. Làng
bị tấn công; gia đình cô bị giết, còn cô thì bị đuổi chạy. Nhưng cô nhớ là lính
có thói quen hay xúc phạm Thánh Thể khi tấn công một làng Kitô giáo. Maria chạy
tơi tả đến nhà thờ, mở cửa nhà tạm và rước lễ. Lính bắt gặp cô ở đấy, dưới chân
nhà tạm, lấy mình mình che lấy Mình Đấng Cứu độ. Họ đánh cô nhừ tử và đạp nằm
dưới chân bàn thờ. Vài ngày sau, Maria tỉnh dậy ở bệnh viện. Nay hai chân cô bị
bại liệt. Lời đầu tiên cô nói được là :"ồ, có ai biết được tôi sung sướng
đến mức nào! Tôi đã có cách cho Chúa
Giêsu biết được lòng tôi yêu thương Chúa !" Tất cả những lý thuyết tan tác
hết trước chứng tá nầy về tình yêu Chúa Kitô trong Thánh Thể.
Thánh Thể
cũng đúng là quê thật của tôi. Nơi một ngôi làng nhỏ ở Việt Nam, nơi một khu
dân nghèo ở một ngoại ô xứ Venezuela hoặc trong một phòng khách sạn, tôi luôn
cảm thấy đó là quê mình khi dự thánh lễ, vì tôi đang ở trong Nhà Chúa. Chúa đã
chọn bàn thờ làm nơi cư ngụ của Ngài, kín đáo nhưng đồng thời tỏ lộ qua
bánh-lễ-Mình-Ngài. Nhìn với mắt trần, hiện diện của Chúa trong Mình Thánh như
chẳng có chi lạ. Nhưng xuyên qua con mắt đức tin, là cả một chân trời kỳ diệu
làm ta sửng sờ. André Frossard, con người vô thần ấy có lần đi vào trong một
nhà thờ, tiến thẳng đến giữa cung thánh, thấy chung quanh toàn là hoa và nến;
và khi đập mắt vào vòng tròn trắng nhỏ chung quanh hào quang sáng chói này, thì
đột nhiên quỳ xuống. Ông nhắc lại kinh nghiệm đó như sau: "Tôi đã gặp
Chúa, và tôi bước ra khỏi nhà thờ, làm người Công giáo Roma".
Đây đúng là một phép lạ. Nhưng
Kitô hữu cần sống tình yêu ngày ngày đó đối với Chúa Kitô trong Thánh Thể, cần
tô bồi ước muốn đi dự thánh lễ để tiếp rước Ngài và gặp Ngài, nhận Ngài làm
tình yêu của mình. Muốn hiểu được tầm quan trọng của ăn thiêng liêng này, tôi
tin là phải trải qua từng giờ chầu Thánh
Thể.
Thử xem, người ta nằm từng giờ,
nằm ngửa nằm sấp trên các bãi biển mùa hè để phơi nắng, làm đẹp làn da. Tại sao
chúng ta không để tâm hồn mình nung nấu dưới mặt trời yêu thương của Chúa ?
Ngày nay tôi càng xác tín rằng khó mà có được cuộc sống siêu nhiên thực sự, khi
không sống từng giờ cầu nguyện trong thinh lặng và thờ phượng. Không cầu
nguyện, thì chúng ta sẽ sống hời hợt, trong một tình trạng thô lậu về siêu
nhiên, như người ta nói viên đá, viên ngọc còn thô, chưa mài, chưa giũa. Trong
Thánh Thể, tôi thấy Mặt Trời Công Chính đổ hào quang chữa lành chúng ta, như
lời của tiên tri Malachia (Ml 3, 20). Mặt trời này chữa lành bệnh mù của chúng
ta.
Đối với tôi, chầu Mình Thánh Chúa
là thực hiện hai lời nói của Thánh Kinh. Lời thứ nhất là :"Họ đã đưa mắt
hướng về người mà họ đã đâm thâu ngực" (Gioan 19, 37). Tội lỗi chúng ta đã
giết Chúa Kitô. Tôi đưa mắt nhìn về Đấng mà tôi đã vì tội lỗi mà đâm xuyên
ngực, khi tôi ngắm nhìn Thánh Thể; vì Thánh Thể là kết quả của khổ đau của Chúa
Kitô và Thánh lễ không gì khác là hy tế của Chúa Kitô nay lại hiện diện trước
mắt chúng ta. Mỗi bàn thờ là một Golgotha. Và chúng ta đưa mắt nhìn về Chúa của
muôn loài, đang bị hiến sinh như một con chiên trên khổ giá. Và lời thứ hai
trong Thánh vịnh :"Ai nhìn đến Ngài sẽ rực sáng, mặt không còn nét lo âu,
bối rối " (Tv 34, 6). Người tội lỗi quay nhìn Chúa, sẽ được an bình và
thấy biến mất đi mọi vấn vương lo sợ. Khi chúng ta quay nhìn Chúa, cái nhìn của
chúng ta sẽ được thanh tẩy thành trong sáng.
Mỗi lần chứng kiến kiệu trọng thể
Mình Thánh Chúa, trong nhiều làng, nhiều phố ở Thụy Sĩ, nhân dịp lễ nghỉ ngày
thứ năm mừng Mình Thánh Chúa, tôi bật thấy mình như mơ màng. Mình Thánh Chúa
Kitô được rước qua các nẻo đường trong phố, các chức sắc dân sự, quân sự và tôn
giáo, rồi dân chúng đi theo. Những người hữu trách trần thế quỳ phục trước một
Thiên Chúa đang hiện diện cho chúng ta dưới hình dáng một Bánh Thánh. Cảnh
tượng đó nhắc nhở lòng khiêm hạ và mở rộng cửa cho bao niềm hy vọng ! Nhưng ước
chi đây không chỉ là một truyền thống do tập tục, thiếu sinh lực của Chúa Thánh
Thần.
Tự do làm chứng
nhân
Lúc đầu, tôi muốn luôn ở riêng
trong ẩn viện. Nhưng không bao lâu, dân chúng lên đây để xin cầu nguyện. Thật
thế, tôi âm thầm đến đây với niềm mong ước được cầu nguyện trong cảnh tĩnh
mịch. Nhưng ban đêm, xuyên qua các tảng đá lại có bóng đèn mờ, ánh đèn leo lét
đó đủ làm cho người ta nhận ra. Cũng phải nói thêm rằng Thánh địa Đức Bà Núi
Scex đã là một nơi hành hương từ xa xưa. Người ta đến đây suốt ngày để cầu
nguyện. Một vài người hành hương ngỏ ý nhờ tôi cầu nguyện theo ý họ xin.
Những cuộc gặp gỡ đó cuối cùng
chiếm nhiều thời giờ quá làm tôi kêu than với Chúa :"Chương trình chầu
Thánh Thể và cầu nguyện hoàn toàn hỏng rồi ! Giúp con với
!" Và tôi phải biết cách tránh mình vào tu viện nhỏ nằm chung quanh ẩn
viện để giữ lại phần thiết yếu : Lòng bên lòng với nguồn suối yêu thương. Khó
mà sắp xếp làm sao cho nhịp nhàng, nào cầu nguyện, ở một mình, tiếp người ta và
cả đi đây đi đó, vì cũng có những lúc người ta yêu cầu mình có mặt bên ngoài.
Dần dần, phải theo một lối sắp xếp cân xứng, và tôi đã chọn sống gần hai phần
ba thời giờ ở ẩn viện và một phần ba ở bên ngoài.
Việc tiếp đón
người ta như thế không tiên liệu lúc ban đầu. Tôi đã khám phá nhu cầu chia sẻ
với kẻ khác ... Người ta đến, có người thì đã từng biết, có người tôi chẳng hề
quen bao giờ. Tôi chỉ cần ý thức là Chúa biết họ, thương họ. Một số đã sống xa
đức tin. Có những người Hồi giáo cũng đến, xin chung lời cầu nguyện với họ cho
con họ đang bệnh. Một người đã từng sống mười năm tù vì tội khủng bố, cũng đã ngủ ở đây vài
hôm. Tiếp họ một cách đơn sơ, lắng nghe và chúng tôi cầu nguyện. Nếu biết được
việc đón tiếp, lắng nghe, hiện diện mà người ta cần đến chúng ta hôm nay, đặc
biệt cần đến Kitô hữu chúng ta, thì hẳn có lẽ ít tốn giờ hội họp vô ích, ít giờ
ngồi trước máy truyền hình. Biết bao lời kêu gọi không ai đáp trả, vì chẳng mấy
khi có được ai nghe ! Hẳn nhiên có nhiều khó khăn, nhiều thất bại, nhiều chiến
đấu gay go. Có cách gì khác được ? Nhưng hy vọng sẽ chiến thắng mọi trở ngại.
Hy vọng vì tin chắc là Chúa đang ở với chúng ta.
Cuộc sống gặp
gỡ, tiếp đón này cho tôi thấy tôi nghèo khó thực. Nghèo khó trước bao lời kêu
xin. Chỉ có Chúa mới có thể hành động. Chỉ có Chúa mới nói tận đáy lòng người
ta. Chỉ có Chúa tự hiến dâng chính Ngài để ban cho người ta tự do. Nên người ta
thấy cần cầu nguyện. Cầu nguyện đêm, ngày, mãi khẩn xin cho Nước Chúa đến trong
tâm hồn mọi người và trong thế giới.
Tiếng kêu trầm thống
Tất cả các
lần gặp gỡ đó bồi dưỡng cho việc cầu nguyện của tôi. Chúng thúc đẩy tôi kêu đến
Chúa, van xin và nài nỉ ân sủng Ngài. Những người nghiện ngập, những cô gái
điếm, những người gặp cơn khủng hoảng đến xin tôi cầu nguyện hoặc trút gánh quá
nặng nề của họ. Một số người mang trách nhiệm trong cuộc sống kinh tế, chính
trị hoặc xã hội đến chia sẻ nỗi ưu tư của mình. Người có đức tin thì muốn tiến
bước xa hơn và muốn cùng cầu nguyện. Mỗi người mang lại một nguồn phong phú vô
tận ! Cần biết sững sờ ngạc nhiên về việc Chúa làm nơi các tâm hồn ! Mọi giờ
giấc ngày đêm, các cuộc thăm viếng này đều tạo sự tươi mát, canh tân.
Tôi yêu các
trẻ nhỏ vô cùng. Nếu không trở nên giống chúng, thì không vào được Nước Trời.
Và vì tôi muốn vào Nước ấy, nên tôi bắt chước các em nhỏ. Đôi khi chúng đến
mang theo một bức vẻ, tôi treo lên các bức tường của ẩn viện. Tôi nhớ năm em
người Hồi giáo từ năm đến mười ba tuổi, ngày kia đến thăm tôi rồi tâm sự
:"Ông kể cho chúng tôi nghe những truyện về Giêsu đi !" Chúng ngồi
gần hai giờ để nghe, nói và hỏi.
Trước bao khổ
đau của con người, Chúa đã gọi tôi để sống trong ẩn viện này như một tiếng kêu
âm thầm bên cạnh những tiếng kêu ấy. ễ tách ra không có nghĩa là chạy trốn,
nhưng để dâng những lời kêu la này lên, không phải nhằm dập tắt mà làm vang dội
hơn lên trong cảnh vực thinh lặng của nguyện cầu và thờ phượng. Đức Hồng y
Suhard từng nói : "Làm chứng không có nghĩa là dấn thân quảng cáo, cũng
không phải là xúi giục dân chúng, nhưng cố gắng trở thành một mầu nhiệm sống
động. Có nghĩa là sống làm sao để cho thấy đời không có nghĩa nếu không có
Chúa". Còn Cha Pierre có suy tư này đã giúp tôi nhiều và nhắc nhở tôi
luôn: "Phải tin như điên, để yêu như điên ". Không khùng điên như
thế, điên nơi Thánh giá, thì Kitô hữu chúng ta trở nên nhạt nhẽo, vô vị, vô mùi
và vô sắc. Tóm lại, là không đáng cho người ta tin !
Khai sinh một Cộng đoàn huynh đệ
Nhiều người
trẻ ngày kia hỏi tôi:" Ngày thứ bảy làm gì bây giờ ngoài việc xem truyền
hình, đi disco, nhậu một ly?" Tôi
đã trả lời cho họ :"Có thể mình gặp nhau buổi tối chung, giữa Kitô hữu với
nhau". Chúng tôi lại gặp nhau ở ẩn viện tối thứ bảy sau đó để cầu nguyện,
chia sẻ bữa cơm tối và cười thỏa thích. Cứ hai tuần chúng tôi lại gặp nhau.
Nhóm càng ngày càng lớn. Có ngày, chúng tôi có gần đến tám mươi người; tuổi từ
hai đến lớp về hưu, phần lớn từ mười tám đến ba mươi lăm. Nay, các buổi gặp tối
thường diễn tiến thế này : học hỏi, ăn chung sau đó cầu nguyện và chầu Thánh
Thể.
Một số bạn
trẻ có sáng kiến thực hiện các cuộc gặp này thấy có ơn gọi từ bỏ cuộc sống nghề
nghiệp để hiến thân cho Chúa. Ngay từ đầu, tôi rất ngại đi vào việc phiêu lưu
lập cộng đoàn. Vì nhiều lý do khác nhau : cuộc sống ẩn sĩ của tôi làm tôi thoải
mái; tôi muốn sống suốt đời như vậy. Trách nhiệm sinh hoạt cộng đoàn quá nặng
nề; mà tôi chắc là mình không có khả năng để dấn thân vào một dự án như thế.
Nhưng rồi lời gọi này xem ra quá rõ. Chúng tôi lắng nghe được những gì đang xảy
ra chung quanh chúng tôi. Chúng tôi từng lưu ý đến những nỗi khao khát cuộc
sống siêu nhiên của thế giới, vì ngay cả chúng tôi, chúng tôi thấy thèm khát từ
đáy lòng cuộc sống đó. Chúng tôi từng bị chấn động bởi lời nói của Đức Giáo
Hoàng Gioan-Phaolô II nhắn nhủ người trẻ họp mặt tại Denver ngày 15 tháng 8 năm
1993, nhân ngày thế giới giới trẻ : "Hỡi các bạn trẻ đang hành hương, Chúa
Kitô cần các bạn để soi dẫn thế giới và để chỉ cho thế giới "con đường
sống" (Tv 14, 11). Thách đố của
chúng ta là chuyển hóa lời "Xin Vâng" của Giáo Hội bằng cuộc sống cụ
thể và thực tế. Cuộc chiến còn dài và thúc bách mỗi người trong các bạn. Hãy
vận dụng trí khôn, tài năng, nhiệt huyết, thông cảm và can đảm của các bạn để
phục vụ sự sống Ặ....Ã. Người ta cần lối sống siêu nhiên tươi mát và lành mạnh
của Phúc Âm. Ặ....Ã. Đừng sợ đi ra đường, ra công trường, như các tông đồ tiên
khởi rao giảng Chúa Kitô và Tin Mừng sự cứu độ trên các ngả đường thành phố,
các chợ, các làng. Lúc này không phải là lúc phải hổ thẹn về Phúc Âm (Rom 1,
16). Bây giờ là lúc rao truyền Phúc Âm trên các mái nhà (Mt 10, 27). Đừng sợ
đoạn tuyệt với lối sống thoải mái và buồn nản đều đặn để chấp nhận thách đố làm
cho thiên hạ biết Chúa Kitô trong "thế giới" tân thời. Chính các bạn
phải đi đến các "đầu ngỏ đường" (Mt Mt 22, 9) và mời tất cả những
người mình gặp đến bàn tiệc mà Chúa dọn sẵn cho dân Ngài. Đừng thu giấu Phúc Âm
vì sợ hãi hoặc vì dửng dưng. Phúc Âm đã không được viết ra để thu hẹp, dấu kỹ
trong cuộc sống riêng tư. Nó phải đem ra ngoài cho mọi người được thấy ánh sáng
của nó và ca tụng Cha chúng ta trên trời (Mt 5, 15-16)". Lời kêu gọi ấy
như trực tiếp gởi đến chúng tôi. Chúng tôi muốn đáp trả.
Bấy giờ chúng
tôi xin Chúa một dấu chỉ nhỏ. Một cái gì rất thực tế, rất cụ thể: một cái nhà.
Hoặc đúng hơn, một nông trại cũ giống như chuồng cừu ở Bêlem. Một thời gian
sau, một người hiến cho chúng tôi một nông trại bỏ trống đúng y như ước vọng
của chúng tôi. Tôi thấy đó là một dấu chỉ rõ ràng rồi, một sự khích lệ để theo
đuổi con đường này. Chúng tôi sửa sang lại nông trại ấy với sự giúp đỡ của
nhiều người. Đây thực sự là một cuộc phiêu lưu nghịch thường đối với một nhóm
trí thức như chúng tôi, vụng về và rất ít khả năng xoay xở trong việc tay chân.
Có lúc cũng rất tài tử, phiêu lưu ! May mà có những người chuyên môn và các tay
nghề đến giúp để Bêlem của chúng tôi giống một cái gì đó ở được. Một linh mục
bạn ngày kia an ủi chúng tôi :"Chúa không chọn người có khả năng, nhưng
làm cho người Ngài chọn thành tài khéo!"
Và như vậy mà
cộng đoàn huynh đệ Eucharistein khởi đầu được. Chữ này muốn nói là "Tạ
ơn", hoặc đúng hơn theo sát nghĩa Kinh Thánh là "đem mọi sự về với
Chúa trong việc ca ngợi và cảm tạ". Chữ này chắc chắn trực tiếp nhắc cho
chúng tôi biết Thánh Thể là sức mạnh và nguồn suối của chúng tôi. Chúng tôi kết
thành một nhóm, có một luật sống chung. Chúng tôi khấn lại từng năm. Ơn gọi
chúng tôi là chầu Thánh Thể và rao truyền Phúc Âm, với những sứ mạng phục vụ
trong các trường học và các giáo xứ. Chúng tôi thực sự mong được sống một cuộc
sống thanh bạch và phó thác cho Chúa Quan phòng.
Lúc này, thì
ngoài Kinh Thánh, chúng tôi dành nhiều thời giờ cho công việc tay chân và tiếp
đón người ta. Nhiều bạn trẻ gia nhập vào Cộng đoàn huynh đệ để sống chung một
thời gian và cùng chia sẻ với sứ mệnh của chúng tôi. Và một thời đại
"Internet", thiên hạ chỉ có nói đến truyền thông, chúng tôi cố đưa sự
hiệp thông vào bên trong các mối quan hệ của cuộc sống con người. Người ta
thông tin rất nhiều mà chẳng mấy khi hiệp thông, chẳng mấy khi dám có những mối
tiếp xúc. Theo tôi, đó hẳn là lý do tại sao có quá nhiều người cô đơn. Vì đây
là cộng đoàn Giáo Hội, nên chúng tôi được gọi để trở nên cộng đoàn sống và hiệp
thông. Giờ đây tôi hiểu được rằng đây là một món quà cao đẹp, vì được sống với
những con người đã trở thành anh, chị của tôi.
III
Ở trong Chúa Kitô
Ngày trước,
tôi đi du lịch nhiều. Được gặp gỡ các anh chị khắp bốn phương trời, thật là quí
hóa. Tôi du lịch như vậy cho đến ngày tôi đi vào ẩn viện. Tôi tin Chúa muốn dạy
tôi ở với Ngài. Tôi cảm nhận được tầm quan trọng của chữ này trong Kinh Thánh.
"ễ", đó là thái độ sống mà môn đệ Chúa thương trong Phúc Âm thánh
Gioan ưu tiên chọn lựa (Gioan 1, 39 và 21, 22). Chương 15, Phúc Âm này của
thánh Gioan soi sáng cho ta hiểu ý nghĩa thâm sâu của thái độ ấy. "ễ"
có nghĩa là gắn vào Chúa Kitô như cành nho gắn liền với cây nho, như Chúa Con
làm một với Chúa Cha. Và hôm nay, nó có nghĩa là sống với Chúa Kitô, bây giờ và
mãi mãi.
"ễ"
là được tình yêu nối mạch vào nguồn ban sự sống. "ễ" với Chúa Giêsu,
với chính sự sống, quan trọng lắm lắm ! Vì ngoài Ngài ra, chúng ta không làm
được chi hết. ễ, dành thời giờ lưu lại bên Ngài, như ở bên cạnh bếp lửa để tâm
sự. Hoặc còn đơn sơ hơn, đó là ngồi làm thinh, không nói gì, nhưng nhìn nhau.
Đơn sơ như thế, vì cuộc sống Kitô giáo vô cùng đơn sơ; nhưng lạy Chúa, thật khó
khăn phức tạp lắm để trở nên đơn sơ !
Dần dần, một
chiều kích khác đến trong tâm hồn ta. Thành công, tham vọng ? Như thế có nghĩa
gì ? Tôi nghiệm thấy chả là gì cả trong chính cuộc đời tôi. Tôi nhớ một kinh
nghiệm sống ở Libăng trong lúc còn chiến tranh. Chúng tôi đến xứ này trong một
chuyến công tác vận động hòa bình, và phải gặp Thủ tướng lúc ấy ở trong vùng
Beyrouth đang bị Syria chiếm. Khi chúng tôi đến ranh giới chia đôi thành phố,
người ta lại bắn vào chúng tôi. Đạn lớn, đạn nhỏ. Chúng tôi bị kẹt vào bức
tường một tòa nhà lớn, và một loạt đạn bay ngang trên đầu.
Bỗng nhiên
tôi nghĩ :"Mình chết đây sao ! Còn cả khối việc chưa làm được !" Một
tiếng nói vụt dội lên từ đáy lòng tôi: "Tội thân con, không có gì phải làm
cả, chỉ có yêu và tha thứ, tất cả chỉ có thế". Tôi vừa cầu nguyện cho kẻ
bắn chúng tôi, vừa nghĩ đến một hình ảnh : một cái kim gút. Tôi giải minh như
sau :đầu kim, đó là cuộc sống trên trần thế, và mũi nhọn, là đời đời. Cái làm
cho cây kim này có ý nghĩa, đó chính là mũi nhọn. Và đời đời, không phải là một
cõi "đời sau". Nó là hôm nay, là sống với Chúa Kitô.
Biết bao lần
tôi đã từng gặp những người có thế giá, các lực sĩ ưu hạng, các nhân vật, và
được nghe tâm sự :"Đấy, tôi đã có hết điều thiên hạ ao ước. Nhưng rồi còn
thiếu cái gì đó : Đời tôi có ý nghĩa gì ? Tất cả mọi thứ ấy để làm gì ? Tôi làm
cái gì đây ?" Nếu cho rằng ý nghĩa cuộc đời là nghề nghiệp, là hoạt động,
hoặc ngay cả những con người hay chết này, một ngày kia mọi sự đều qua đi, ước
vọng không tròn, bấy giờ là thất vọng. Điều đáng kể, không phải làm cái này hay
cái kia, mà là Tình yêu chúng ta đem lại cho việc chúng ta làm. Nghĩa là nhìn
Chúa Giêsu hiện diện mọi nơi, và làm mọi việc với Ngài.
Tại nơi ẩn
viện này, tôi dần dần tập đưa Chúa Kitô vào cuộc đời tôi, nhất là trong tất cả
mọi công việc hằng ngày, như lượm củi, múc nước, tắm dưới vòi nước ngoài trời
... Phần chính yếu luôn chỉ là một : Chúa Giêsu.
Quên mình
Một trong
những hồng ân của đời tôi là đã được ở một tháng tại "Piccola Casa della
Divina Providenza", một căn nhà nhỏ gần thành phố Turinô được biết đến qua
tên tuổi của vị sáng lập, Giuseppe Cottolengo. Đây là nhà tiếp nhận những người
khuyết tật nặng. Ngay khi tôi mới đến, nụ cười và cái hôn chào đón, tâm tình
đơn sơ của các em làm tôi xúc động vô cùng.
Tối hôm đầu,
tôi tắm rửa các người bệnh, từ đầu đến chân đầy uế tạp. Cuộc tẩy uế hoàn thành
tốt đẹp ! Lúc đầu hẳn nhiên tôi ớn lạnh rùng mình. Nhưng càng làm, càng thấy
hoan hỉ. Không phải nhúng tay vào nơi đầy uế tạp, nhưng là sờ đụng được thân
thể Đức Kitô. Câu nói này của Phúc Âm dội lên trong tim tôi: "Những gì con
đã làm cho người bé nhỏ nhất trong anh em Ta, là con đã làm cho Ta". Chúa
Giêsu ở đó, nơi người anh em tàn tật, dị hình, bị thương tích. Rồi đến khuya,
tôi vào nhà nguyện, tôi thấy được rằng cũng chính Chúa Giêsu ấy hiện diện trong
Thánh Thể. Tôi tin đây là lần đầu tôi đã khóc thật sự vì hân hoan; niềm vui này
phát xuất từ việc tôi biết quên mình.
Cottolengo
đúng là khúc ngặt trong đời tôi. Tôi đã khám phá được kho tàng phong phú thật
sự đang ẩn dấu : đó là khuôn mặt của những người nghèo khó nhất. Chính họ có
được chìa khóa của con tim, họ mở cửa tình yêu cho chúng ta. Họ làm cho chúng
ta hiểu điều đã bị che khuất vì chủ trương thuần trí thức về sự vật. Trong một
thế giới mà người ta cố làm nổi, cố tạo hào nhoáng bên ngoài, thì họ giúp ích
chúng ta hiểu được điều thiết yếu mà con mắt trần tục không thấy. Đây là khám
phá kỳ diệu để thấy được khuôn mặt Chúa Giêsu ẩn núp sau những hình hài đơn
bạc, của một người nghèo khổ khuyết tật thân xác hoặc tâm thần, cũng như của
một mảnh bánh mì, Mình Thánh Chúa.
Sống độc thân
Tất cả những
điều đó đã chuẩn bị cho tôi dâng hiến đời mình cho Chúa. Đối với tôi, cuộc sống
độc thân mà một cái gì tuyệt đối không thể tưởng tượng được vào một giai đoạn
nào đó trong đời tôi. Lúc còn sinh viên, tôi sống bên lề đức tin. Thời giờ rảnh
thì uống rượu, hút thuốc. Tôi cũng đã có nhiều bồ bịch, trước khi sống bốn năm
với một cô gái. Cuộc trở lại của tôi xảy ra vào thời ấy. Nó xuyên qua việc khám
phá chân lý về hôn nhân và tính dục. Về nét đẹp của sự trong sạch. Tôi khám phá
rằng bài diễn văn của Đức Giáo Hoàng về các vấn đề này không phải là một sứ
điệp cuối mùa, lỗi thời gởi cho mấy "cụ non", như tôi từng tưởng
tượng. Không ! Sứ điệp mà tôi đã từng vất bỏ, kỳ thực lại giải được cơn khát
của tâm hồn tôi. Sứ điệp ấy đối với tôi là cẩm nang hạnh phúc và tình yêu chân
thật. Tôi khám phá điều ấy như một tát tai khi nhận ra được nỗi đau đớn của một
cuộc sống xa rời chân lý này.
Tôi đã hứng cái tát ân phúc
này khi nghe một cuốn băng cassette của cha Daniel-Ange : "Ton corps fait
pour l'amour" ‘Thân xác của bạn được dựng nên để yêu thương’. Đúng là một
chấn động thực sự. Lối nói đơn sơ và rõ ràng về tình yêu chân thật và trong
sạch, đòi hỏi và cao đẹp, làm tôi ham thích. Nhờ leo núi, tôi kinh nghiệm được
rằng nỗ lực và chiến thắng sau một cuộc tranh đua khó khăn, sẽ mang lại cho ta
một niềm vui to lớn. Nhờ vượt thắng được chính mình mà ta có được niềm vui đó.
Ý thức mình sai và Đức Giáo Hoàng có lý đúng là một cú đấm vào lòng cao ngạo
của tôi. Đúng hơn đây là Chúa Kitô nói cho tôi nghe qua miệng của Đức Giáo
Hoàng Gioan-Phaolô II. Kinh nghiệm về
tình yêu chân thật ấy, về tình yêu cho hơn là nhận, đã giúp tôi quyết định con
đường tận hiến của tôi. Từ từ tôi nhận ra được rằng ân sủng về ơn sống cuộc đời
độc thân trong sạch là một ơn Chúa ban. Ơn ấy đến cứu giúp sự yếu hèn của tôi
và giúp tôi giữ được sự trong sạch không phải chỉ nơi thân xác, nhưng là trong
tâm hồn, để linh hoạt được khả năng yêu thương mà Chúa Thánh Thần đặt để nơi
tôi. Khám phá việc có thể giữ mình trong sạch trong một thế giới kích dục, qủa
là việc không ngờ được. Nhưng khám phá rằng tự sức mình tôi không đủ sức đạt
được sự trong sạch ấy, và phải cần nhờ đến Chúa, thì điều đó lại làm cho tôi
phấn chấn.
Tôi còn cảm thấy mình được gọi
để yêu thương trong mức độ tận hiến hoàn toàn. Và phải tận hiến cho Chúa. Chỉ
có Ngài mới có tâm hồn bao la, bao dung đủ để lấp đầy được ước vọng của tôi.
Tôi quyết định đáp trả lời mời gọi dội lên trong tôi, và trao mình hoàn toàn
cho Ngài, mong chính Ngài cho tôi lại những người anh người chị. Chúng ta là
những tôi tớ và Chúa ban cho chúng ta ơn phục vụ, như chính Ngài đã tự làm
người giúp việc khi rửa chân cho các môn đệ của Ngài. Con đường phục vụ đi qua
"diệt ngã" tức là chết đi "cái tôi" của mình để sự sống của
Thiên Chúa thể hiện trong chúng ta; chính khi biết dời cái nhìn vào mình để
chuyển qua nhìn đến nhu cầu của kẻ khác, bấy giờ con người đạt đến chân tánh
của mình, tìm lại phẩm giá thật nơi mình.
Sống thanh khiết, độc thân
không phải là dịp để sống yên ổn, ngăn nắp cho cuộc sống riêng tư đóng kín;
sống theo kiểu già không chịu cưới vợ để khỏi ai phiền. Tôi thường nghĩ đến
những bậc làm cha làm mẹ đêm hôm phải thức để săn sóc con cái khi con cái đau
ốm, hoặc dỗ dành khi chúng bị giật mình hoảng hốt. Chọn đời tận hiến, tôi không
thể yên ổn, thoải mái hơn họ. Và không phải vì tôi không có con cái để đêm hôm
bị quấy rầy, mà tôi có thể nằm thẳng chân trên giường ngủ ngáy liên miên. Tình
yêu của tôi phải lôi kéo tôi, thức tôi dậy. Tôi phải đi tìm tình yêu ấy. Cũng
vì vậy mà đêm đêm tôi thức dậy cầu nguyện hoặc chấp nhận đón tiếp người ta thăm
viếng ngay giữa đêm. Cầu nguyện đêm ngày, vì Ngài đòi hỏi. Cầu nguyện để khỏi sống
nguội lạnh. Nhưng cầu nguyện cũng là liên đới với tất cả những bậc cha mẹ -
khắc khoải hoặc mệt nhọc phải thức dậy trong đêm vào cùng lúc ấy. Hình ảnh của
Kitô hữu chân thật, là người luôn tỉnh thức.
Vai trò của ân sủng
Tôi có nói đến câu "đến
cùng", kỳ thực chính câu nói ấy làm tôi mất ngủ. Nhưng làm sao khăn gói
lên đường đi đến cùng cho nỗi ! Không cách gì tự sức mình thực hiện được. Vậy,
có cách gì đáp trả lời mời gọi ấy, để khỏi tự buộc mình vào một lối sống nhạt
nhẻo, buồn chán, mắc cạn trong những giới hạn khốn khổ của mình ? Làm sao để
khỏi bỏ cuộc trước một lý tưởng - chính đó là lý tưởng mà Đức Kitô dạy chúng ta
phải sống trong Phúc Âm -, mặc dầu ta biết rõ là ta không thể đủ sức thực hiện
? Khúc ngoặt, đó lá ý thức được rằng còn có ân sủng. Và đó là cuộc cách mạng vĩ
đại của Kitô giáo, là trung tâm cuộc sống mới : Ân sủng, có nghĩa là sự sống
của Thiên Chúa trong chúng ta. Sự trợ giúp liên lỉ của Thiên Chúa gánh đỡ sức
yếu hèn của chúng ta.
Thánh Phaolô sững sờ nhận xét
sự kiện đó :"Thiên Chúa đã đi bước trước để yêu thương chúng ta".
"Ngươi có cái gì ngoài những gì đã nhận ?" "Và nếu ngươi đã nhận
được cái ngươi có, tại sao lại huênh hoang làm như ngươi không từng nhận điều
ấy ?" Nhiều câu như thế nhắc nhở chúng ta biết về nội dung này. Mỗi ngày,
tôi khám phá ra tất cả những gì tôi đã tiếp nhận : sự sống, những người đã giúp
đỡ tôi, ơn được ăn học, các cuộc gặp gỡ và kinh nghiệm trong cuộc sống. Đúng là
kỳ diệu.. Tôi cũng thấy rõ hơn nữa về sự thiếu thốn của mình và niềm vui được
tựa nương vào Chúa để thăng tiến.
Tôi nghĩ là chúng ta đang sống
trong một thời đại bi đát và cao ngạo, thúc bách chúng ta thành công, dựa vào
bàn tay mình để làm đủ mọi việc. Nhưng người ta ý thức rằng điều đó không thể
thực hiện được. Để rồi sinh ra lo hoảng, có lúc phô trương tự đắc không căn cứ,
hoặc trông chờ vào những thử nghiệm, những kỹ thuật mà Thời Đại Mới cung ứng dễ
dàng, để tăng cường tiềm năng của mình. Kinh nghiệm về giới hạn, thất bại và
yếu hèn của chúng ta thật thảm hại. Đối với tôi, sự yếu kém này lại trở thành
niềm vinh hạnh cho tôi, là biểu hiệu đầu tiên của ân sủng. Thiên Chúa thực sự
đến cứu giúp nỗi yếu hèn của chúng ta.
Chỉ có Chúa mới thực hiện được
điều phi thường này : Chúa ân cần đón nhận tình cảnh yếu hèn của tôi; Ngài nung
nấu tâm tình này của tôi nơi lửa từ ái của Ngài, và từ thân phận khốn cùng này,
Ngài làm những phép lạ ngay trong tôi. Chúa nắm trong tay chúng ta và dẫn dắt
chúng ta, như chương mười lăm của Phúc âm thánh Gioan ghi lại :"Ta là cây
nho thật, anh em là cành; tách rời Ta, anh em không làm được gì cả". Đấy
là câu trả lời duy nhất cho lòng cao ngạo quá mức và kỳ quặc của thế giới ngày
nay.
Hai trào lưu tôn giáo lớn
Theo tôi, nhìn kỹ vào vấn đề,
ta thấy có hai trào lưu tôn giáo xuyên qua cuộc sống nhân loại. Đúng hơn đây là
hai thái độ của tâm hồn con người đối diện trước Thượng đế. Mỗi một chúng ta,
một lúc nào đó trong đời mình, có thể chọn lựa riêng cho mình thái độ này hay
thái độ khác trong hai trào lưu. Trào lưu thứ nhất, là thái độ con người tự cứu
thoát lấy mình. Có thể bằng hình thức hành đạo hay dùng các kỹ thuật của ma
thuật, như một phương tiện trung gian để cố nắm bắt cho được Thượng đế; cũng có
thể dùng khoa học để cố giải thích mọi việc; và rốt ráo là vận dụng hết ý chí
của mình để tự mình giải quyết.
Trào lưu thứ hai tôi gọi là
thần bí. Hẳn nhiên không phải theo nghĩa người ta thường hiểu về chữ này, chẳng
hạn qua hình ảnh một vị thánh nào đó ngất trí được nâng lên khỏi mặt đất. Thần
bí theo nghĩa là một kinh nghiệm về thân phận con người mình trong cõi đời này.
Kinh nghiệm sâu xa về nhu cầu cần được cứu thoát. Thần bí đúng là kết quả của
một kinh nghiệm: kinh nghiệm về sự bất cập của chính mình trong nỗ lực tự cứu.
Người ta tìm thấy truyền thống
thần bí này, không phải chỉ trong Kitô giáo, nhưng trong tất cả các tôn giáo.
Vì nó gắn liền với tâm thức con người, tự bản chất là tôn giáo, nghĩa là được
tạo dựng để nối kết với Thượng đế. Đây là truyền thống bakti tại Ấn độ, hoặc
truyền thống soufi chẳng hạn trong Hồi giáo. Ngược lại, nhiều Kitô hữu, dẫu quả
quyết Đức Kitô là Đấng cứu độ, nhưng lại hành động và sống như chính họ tự cứu
lấy được mình.Kinh nghiệm nỗi bật về nhu cầu cần cứu chuộc kỳ thực thấy được
nơi tất cả những người nghèo của Chúa, nơi người mà Thánh Kinh gọi là anawim.
Những anawim này cũng là những nhà chiêm tinh trong Phúc Âm thánh Mathêu. Và rõ
rệt, những người muốn tự cứu, đó là những người biệt phái. Họ quá chắc chắn về
công lý riêng của họ, về quyền đương nhiên của họ, đến độ họ không nhận ra Đấng
Thiên Sai nơi khuôn mặt của một người nghèo, đó là Đức Giêsu.
Sứ điệp đó nay thực sự nói đến
tất cả những người nghèo, những người phải đương đầu với cảnh khốn cùng, hoặc
những kẻ không hữu hiện, không gây nỗi thành tích, không thông minh quán thế.
Sứ điệp đó cũng được tất cả những người đã từng có thành tích, đa năng đa hiệu
và thông minh tuyệt đối, nhưng có lúc đã vỡ mặt vì bị sa thải, mất việc, thách
đố trong cuộc sống gia đình, yếu đau vật ngã. Bỗng nhiên mọi cái đều sụp xuống.
Và bấy giờ người ta có thể khám phá ra một chiều kích mới trong đời mình, một
cái gì tinh tế, một luồng sinh lực của tình thương, vì kỳ thực thất bại không
phải là vô vọng. Nó mở ra cho chúng ta thấy Đấng đang đùm bọc chúng ta, khi
chúng ta không còn đủ sức tự lo cho mình. Cuối cùng tất cả những ai chưa biết
đến trở ngại trên đường đời, cần thiết phải bám sát đức tin để hiểu rằng chính
Chúa nâng đỡ cho họ đứng vững và nên tạ ơn Chúa về hồng ân này.
Niềm vui trong khổ đau
Bạn nói đến khổ đau sao ?
Không thể được. Kỳ thực đau khổ nói suông không có thực. Cái có thực, là người
nào đó đang khổ đau. Những khuôn mặt người tuần tự đi ngang trước mắt tôi. Cái
xấu, điều không hay là thiếu vắng một cái gì tốt, một cái gì hay. Người bệnh,
thiếu sức khỏe. Người buồn, thiếu hứng khởi và hoan lạc. Sự thiếu thốn và trống
rổng là điều đáng kinh hoàng. Điều xấu, điều ác do đó là một cái gì vô lý, trí
khôn con người tức bực, không chịu nỗi. Và dưới nền của tòa nhà của sự ác, khổ
đau, xấu xa ..., là hai hố thẳm đe dọa chúng ta, hố thẳm của tuyệt vọng và căm
phẫn làm loạn. Chúng làm chúng ta choáng váng và kéo chúng ta xuống. Và giữa hố
thẳm, người người trông chờ một lối thoát, thì lại có cây thang. Cây thang ấy
là Thánh giá Chúa Kitô. Khi níu được cây thang này, con người vượt qua được cơn
cảm thức phi lý, phẫn nộ để đi vào mầu nhiệm.
Mầu nhiệm này, là khuôn mặt
của một người đang mang nỗi khổ đau, của Đấng đến mặc lấy khổ đau để hiện diện
với chúng ta. Từ nơi Thánh giá Chúa Kitô, sự ác đã thua cuộc. Khổ đau được biến
cải để mang một ý nghĩa khác. Tôi nghĩ đến một cô gái nọ, sau nhiều đêm cầu nguyện
trước Thánh Thể, đã viết cho tôi mấy dòng này :"Tôi phải vào bệnh viện, vì
bệnh tình thập tử nhất sinh. Mấy tháng trôi qua. Cuộc sống tôi, thiếu vắng tình
thương, chả có ý nghĩa gì. Phải làm cái gì cho xong : tôi đã chọn con đường tự
vận. Tôi nhờ phép lạ thoát chết. Không hiểu sao trên cao ấy người ta chê tôi.
Bấy giờ tôi nẩy ý nghĩ chầu Mình Thánh chín đêm. Và Chúa Giêsu đã chữa lành khổ
đau của tôi, băng bó vết thương lòng tôi. Tôi phó thác cho bàn tay Mẹ Maria ẵm
bồng. Tôi tự nhủ, nếu người ta đau khổ và rơi vào hố thẳm tăm tối, thì chỉ có
thể rơi đúng vào Chúa Giêsu thôi. Tôi đã rơi xuống đụng Chúa Giêsu và Ngài đã
là bàn tay đẩy tôi lên lại và đưa tôi đến ánh sáng". Tình yêu xuống trên
chúng ta và nhẹ nhàng nâng chúng ta lên, như một hiền mẫu nâng con thơ của
mình.
Đó là sứ mạng của cứu chuộc.
Vấn đề không phải xem mình sẽ phải khổ đau hay không. Không lúc này thì lúc
khác, có lần rồi tất cả chúng ta sẽ đối đầu với thử thách và đau khổ. Vấn đề là
khổ đau đó đem lại ý nghĩa gì. Tôi nghĩ đến câu nói của hàn lâm viện sĩ Thierry
Maulnier, người tự cho mình là người vô thần :" Có nhiều tôn giáo lớn,
nhưng chỉ có một tôn giáo cho phép kẻ thấp kém nhất, đang còng mình cuốc đất,
đẩy xe chở rác hoặc trên cuốn sổ kế toán, cho phép người bình thường nhất, người
vô danh tiểu tốt, xác tín được rằng mình đang ở trong cái nhìn yêu thương của
Đấng cai quản mọi thế giới; và còn hơn thế nữa cho phép họ không bị đánh giá là
bất xứng để được một Thiên Chúa hy sinh chính Ngài để cứu độ mình". Kitô
giáo dám nhìn thẳng vào khổ đau, vì Thiên Chúa mà tôn giáo này tuyên dương
không phải là một Thiên Chúa xa lạ với đau khổ. Chính Ngài tự mình đã sống khổ
đau cho đến cùng.
Thiên Chúa chịu khổ đau ấy là
chứng cớ cho thấy Kitô giáo đúng là một mạc khải của Thiên Chúa, chứ không phải
là một chuyện do con người nghĩ ra. Con người không bao giờ lại bày ra một
Thượng đế đau khổ, một Thượng đế làm kẻ nghèo hèn. Lặp lại lời của Claudel,
chúng ta nói Thiên Chúa không đến để xóa bỏ khổ đau, và ngay cả giải thích khổ
đau nhưng mặc lấy khổ đau nơi mình và cho nó một ý nghĩa. Đến mức đó, phải làm
như Mẹ Maria trước Thánh giá. Stabat
Mater : Mẹ đứng gần Thánh giá. Câu nói đầy uy dũng : stabat Mater! Đứng như một cột trụ, đứng như một lời cầu
nguyện sống động, tâm hồn tan nát vì cảm thương, trong yên lặng, một sự thinh
lặng vang ca lên như bài kinh ca ngợi đẹp nhất dâng lên Thiên Chúa Cha trên
trời.
Cũng cần phải lắng nghe những
người làm chứng cho khổ đau, vì chính họ qua khổ đau trở thành như tượng hình
của Đức Kitô hiện diện, Đấng chịu đóng đinh, được phục sinh và sống giữa chúng
ta. Tôi nghĩ đến bức thư của anh Philippe bị bệnh Sida, bức thư viết sáu tháng
trước khi anh ấy chết :"Căn bệnh hồng phúc đã mở lòng trí tôi đón nhận ơn
Chúa. Cử chỉ cao cả của lòng từ tâm của Chúa, Đấng cho phép chúng ta được khổ
đau với Ngài, khi Ngài đến chịu khổ đau vì chúng ta và thực hiện tình yêu
thương cho chúng ta. Ặ...Ã. Điều quan trọng, không phải chết, chấm dứt sự sống
nơi trần thế, nhưng là sinh ra trong cuộc sống trên trời. Chết mà sống mãi, đó
là ước nguyện và kinh nguyện của tôi, sống cuộc sống thật, sống khát khao cuộc
sống thật đang đợi tôi Ặ...Ã. Tôi sung sướng, sung sướng về Tất cả những gì
Ngài đã ban cho tôi để sống". Những ai đã vượt thắng khổ đau thì làm chứng
được về uy lực của mầu nhiệm Phục sinh. Họ thể hiện niềm hy vọng quá mức, như
điên rồ, mà mầu nhiệm ấy mang lại. Mầu nhiệm ấy tác động nơi những yếu hèn của
chúng ta, để biến đổi những gì làm cho trần thế phẩn uất và vấp ngã thành hạnh
phúc, hoan lạc.
Niềm hy vọng của mầu nhiệm Phục Sinh
Thiên Chúa đến giữa chúng ta
qua khổ nạn của Đức Kitô. Đó là đỉnh cao yêu thương. Có gì hèn hạ và nghèo khổ,
có gì đáng kinh hoàng gớm ghiết hơn là một người chết trên một thập giá ? Chúa
Giêsu đã tự hiến mạng sống Ngài để mở cửa trời cho chúng ta. Con đường chúng ta
đi đến Chúa không còn cách nào hơn là để Thánh giá Chúa Kitô trồng nơi tâm hồn
mình và để sự sống lại của Ngài thể hiện ra trong cuộc sống mình. Mỗi người
chứng nghiệm nơi mình một cuộc đảo lộn toàn diện. Bên Ngài, có thể không có gì
đổi thay. Điều đó không quan trọng mấy, nhưng bên trong mọi cái đều rực sáng
lên từ ánh sáng mới này. Đó là sự trở lại.
Khi Chúa Kitô vinh quang tự
bước ra khỏi mồ, thì đó là chiến thắng dứt khoát của Tình yêu và sự sống trên
tội lỗi và sự chết. Nên để điều không thể nào tin được đánh động lòng mình; nên
để điều không vươn tới được ụp đến trên đời mình; nên để biến cố lịch sử luôn
luôn linh hoạt của mầu nhiệm Phục sinh đổi thay chân trời của mình. Người ta có
thể chối bỏ sự kiện này, nghi ngờ hoặc bài bác. Điều tôi xác quyết sẽ không
thay đổi gì thực tại.
Tôi nghĩ đến chuyện người cộng
sản Nga có lần đã đi đến một làng nhỏ, sau cuộc Cách mạng tháng Mười, để giải
thích cho dân chúng về thành tích của cộng sản vô thần. Sau hai giờ diễn thuyết
hùng hồn, nẩy lửa, để tỏ bày thiện chí của mình, chức sắc chính trị này trao
lời lại cho vị linh mục Chính thống giáo tham dự cuộc họp. Linh mục đứng dậy và
chỉ nói một lời thôi: "Christos voskrecie!" (Đức Kitô đã sống lại!) Mọi người như một đứng thẳng dậy và hô lớn
câu trả lời này, vụt lên từ tận đáy lòng họ và từ nơi ký ức linh động của một
dân tộc."Istina voskrecie!" (Ngài
thực sự đã sống lại !). Và chừng đó đã quá đủ.
Điều đáng thán phục trong biến
cố Phục Sinh, là Chúa Kitô dùng những phương tiện nghèo là Thánh giá và khổ đau
để làm dụng cụ của ơn Cứu độ. Tình yêu nối kết những thập giá của chúng ta với
Thánh giá, truyền Ơn Cứu độ ấy cho thế gian, phổ cập nơi nơi, làm rực sáng ngọn
đuốc của Mầu nhiệm Phục Sinh. Cuộc chiến mà chúng ta dấn thân triển khai giữa
lòng thế giới chỉ có thể mang lại chiến thắng khi chúng ta thấm nhập vào chiến
thắng của Chúa Kitô và sống vinh quang ấy. Chúng ta tiếp nhận chiến thắng của
Chúa Kitô nhờ ân sủng của các bí tích và nhờ Chúa Thánh Thần, Ngài sống, than
thở, cầu nguyện, hành động và yêu thương bên trong chúng ta. Chúng ta thấy được
rằng chiến thắng tối tăm không phải bằng nỗ lực xua đuổi tối tăm. Nhưng nó đã
được thực hiện và sẽ mãi được thực hiện khi thắp đuốc lên, khi mang ánh sáng
của hy vọng tới. Như Péguy từng nói về "Cô bé gái hy vọng".
Chúng ta tất cả được nối kết
một cách nhiệm mầu, nhưng thật sự với Chúa Kitô. Mọi ân sủng đều đến từ nơi
Ngài. Khi nối với nguồn Kitô, Kitô hữu trở thành một giòng suối thông ơn phúc.
Tôi luôn ôm ấp kỷ niệm về cô gái bị phung cùi mà tôi được gặp ở Chypre. Cô ta nằm
đấy, rã rời do căn bệnh kinh hoàng, nằm đấy như một mình thánh sống động trên
bàn thờ là giường cô. Khi tôi ôm hôn cô, nụ cười rạng rỡ xuyên suốt bầu trời
tâm hồn cô; và trong tiếng thì thào, nhưng uy dũng làm sao ! Cô nói bên tai tôi
"Eucharistia !" (Cám ơn !) Từng
ấy đủ lắm rồi ! Câu nói vắn gọn xuyên tim tôi nhắc tôi nhớ đến toàn bộ mầu
nhiệm Kitô giáo. Chính Thánh Thể đưa mầu nhiệm Tình yêu cao cả nhất hiện diện
giữa chúng ta, mầu nhiệm mà vũ trụ chưa bao giờ biết đến : mầu nhiệm Thiên Chúa
làm người chết trên thập giá. Chính là Thánh Thể thông truyền cho chúng ta sứ
mạng của Phục sinh. Chính Thánh Thể trao cho tôi Đức Kitô toàn thể để không
phải tôi sống nhưng Đức Kitô sống, khổ đau và rạng chiếu trong tôi. Eucharistia ! Vâng, tạ ơn Chúa !
Nhờ Đức Kitô, trong Đức Kitô,
chúng ta là chi thể của Ngài. Mối liên đới nhân loại vừa tuyệt vời vừa đau đớn
mà Thiên Chúa đã muốn thế, khi cứu chuộc chúng ta tất cả bởi một mình Chúa Kitô
mà thôi. Nên, khi một tâm hồn nâng lên, thì toàn vũ trụ thăng hoa. Khi một người
té ngã, cả vũ trụ đắm chìm. Không có gì quá đáng khi nói rằng toàn vũ trụ rung
chuyển bởi một hành vi yêu thương. Ngược lại, nó gặp nguy cơ do tất cả những
khước từ yêu thương. Vâng, toàn vũ trụ rên xiết thực sự trong nỗi đau của sinh
đẻ, chờ đợi chúng ta thực sự trở thành con người đúng theo ơn gọi của mình :
làm con Thiên Chúa (Rom 8).
Hành động và cầu nguyện của
chúng ta có tầm mức vũ trụ. Thật thế, không phải các tinh tú chi phối chúng ta
như thiên văn đa số suy diễn, ngược lại, con người chi phối vũ trụ tùy nó chấp
nhận hay từ khước sức mạnh Phục Sinh hành động trong cuộc đời của mình. Tinh
thần cao quý và uy dũng hơn vật chất. Nguồn lực đổi thay vũ trụ, đó là yêu
thương. Yêu đến cùng, hiến cả mạng sống mình, đến tử đạo. Kỳ cùng, khôn ngoan
thực sự trong Kitô giáo là tử đạo.
Tôi buồn lòng về một Kitô giáo
lắm lúc ủy mị, không ăn khớp chút nào với Đức Kitô Phục sinh. Đó không phải là
bản chất của đức tin chúng ta, cũng không phải là sinh lực mà các tông đồ, các
thánh và các vị tử đạo đã truyền lại cho chúng ta. Chỉ có việc rao truyền Đức
Kitô trong toàn thể thực tại của mầu nhiệm Phục sinh của Ngài mới giúp chúng ta
hiểu chúng ta được đưa vào một cuộc sống yêu thương thân mật đến độ nào. Một
ngày kia Chúa Giêsu hỏi Têrêxa Avila :"Con tên gì ? - Têrêxa trả lời
"Têrêxa của Giêsu, và còn Ngài ? Chúa Giêsu liền đáp "Giêsu của
Têrêxa". Đó là mối tình thắm thiết mà chúng ta được Chúa mời chia sẻ.
IV
Can đảm
sống Phúc âm
Tôi hoàn toàn khám phá ra
lại Giáo Hội là một hiền mẫu, mẹ của tôi. Là một kho tàng và đồng thời là một
mầu nhiệm. Trước đây tôi không bao giờ thực sự chỉ trích Giáo Hội; nhưng rồi
ngày kia, do một luồng ảnh hưởng báo chí chống lại giáo huấn của Giáo Hội, tôi
đi vào dư luận của bao kẻ khác, để bắt đầu chống báng Giáo Hội, đánh giá Giáo
Hội lẩm cẩm và lỗi thời. Tôi nhìn thấy Giáo Hội như là một vùng đất cấm đoán,
thiếu tự do. Bằng chứng là những chuyện động trời do tác phong của một số nhân
vật bên trong Giáo Hội gây nên. Trên mặt lịch sử, khách quan, có ngàn lý do để
bàng hoàng, khó chịu trước thái độ của một vị Giáo Hoàng, Giám mục hoặc giáo
dân nào đó, trong một vài bối cảnh của lịch sử. Nhưng nhìn bên ngoài mà thôi,
thì không thấy cái gì cho rõ.
Phải đi xa hơn nữa. Đằng
sau những bì phu ấy có Đức Kitô thực sự ẩn mình ở đấy. Có lần người ta gài bẫy
Jeanne d'Arc, mấy vị xét xử và hành hình hỏi: "Như thế thì người nghe theo
ai, Đức Kitô hay Giáo Hội ?". Cô trả lời một cách tuyệt vời :"Tôi
nghĩ là Đức Kitô và Giáo Hội, chỉ là một". Dần dà, tôi đã khám phá lại
Giáo Hội và nét đẹp ấy. Đối với tôi, nay Giáo Hội đã trở thành căn nhà tạo cho
tôi tự do. Tình trạng nô lệ không phải ở nơi vùng đất mà tôi đã từng suy nghĩ.
Tôi hư đốn và đánh mất chân tính của tôi, việc đó không do Giáo Hội, nhưng do
tinh thần thế tục.
Điều giải phóng tôi, đó là
giáo thuyết Giáo Hội về hôn nhân và phái tính, nghĩa là điểm bị tranh cải nhiều
nhất trong giáo huấn của Hội Thánh. Bấy giờ tôi tự nghĩ :"Nếu Giáo Hội có
lý về điều làm tôi khó chịu nhất, nếu Giáo Hội tuyên dương một chân lý giải thoát
tôi, thì trái với điều tôi từng nghĩ, phải chăng Giáo Hội lại không có lý về
các mục khác còn lại ?" Từ thắc mắc đó, tôi khiêm tốn bắt đầu học hỏi về
Giáo Hội. Hẳn nhiên là tôi không hiểu hết, nhưng tôi luôn bắt đầu với nguyên
tắc sau đây: "Phải chăng Giáo Hội đã có lý và tôi đã từng sai ?"
Mỗi một khi có một điểm nào
đó trong Giáo Huấn Giáo Hội làm tôi khó chịu, thì đấy là vì tôi thiếu một chiều
sâu siêu nhiên nào đấy để đi vào mầu nhiệm, vượt lên trên những điều nghịch
thường hoặc thắc mắc. Chìa khóa để hiểu giáo huấn ấy, đó là luôn luôn yêu
thương. Không phải yêu ủy mị nhưng tình yêu bị đóng đinh trên Thánh giá. Mọi
cửa đóng kín không cho tôi hiểu nay nhờ khóa này mà mở toang ra. Ta không hiểu
gì hết về sứ điệp của Giáo Hội, nếu ta chỉ cần quên trong một chốc lát rằng
mình đang hướng theo một Đấng Thiên Sai chịu đóng đinh, là điều làm cho một số
tín đồ tôn giáo phải khó chịu, là điên rồ cho kẻ không tin, nhưng đối với ai
yêu thương Ngài, thì đó là sức mạnh và khôn ngoan của Thiên Chúa.
Tôi thấy ngày nay Giáo Hội
không phải yếu nhược vì già lão, như người ta thường nói, nhưng vì rụt rè. Nhất
là Giáo Hội Tây phương. Một cái gì dửng dưng, vô cảm làm cho người ta không còn
tin vào sức năng động của Phúc Âm. Emmanuel Mounier từng nói rất đúng rằng
chúng ta cần "Một Kitô Giáo ngoài trời" : "Kitô giáo của chúng
ta không nhập thể nỗi sẽ sụm xuống trong một cuộc chiến hoặc suy bại từ từ
trong cuộc sống thoải mái, điều đó sẽ khó lòng thoát khỏi sự phê phán của lịch
sử".
Người ta không còn tin
những gì Thánh Kinh nêu lên và đòi hỏi ở nơi mỗi người. Người ta không để cho
Đấng đã Phục Sinh yêu thương, không để cho đời sống các thánh và những kẻ làm
chứng về tình yêu Thiên Chúa quấy rầy mình. Nhất là người ta không tin rằng
Chúa đòi hỏi nơi mỗi người một câu trả lời về đức tin, một cách rõ ràng. Những
lời nói quanh co, những lý lẽ chúng ta nêu lên để trì hoãn câu trả lời này sẽ
hụt chân, khi ta gặp tình yêu. Cần có những người chứng cho tình yêu ấy, để hô
to tình yêu giữa thế giới, qua cái nhìn, cử chỉ, lối tiếp đón ân cần đối với kẻ
khác. Cần có những chỗ nghèo cho tất cả những người nghèo. Những chỗ để tình
yêu tuôn trào lai láng.
Khi tôi làm việc ở Vatican,
tôi mới biết được Giáo Hội không giàu chút nào. Người ta tính từng tờ giấy.
Muốn có một máy điện toán, là cả một vấn đề, lương bổng cũng rất sít sao. Kinh
nghiệm đó đi ngược lại một vài tiên kiến bấy lâu. Hẳn có những ngôi nhà cao
đẹp. Nhưng bao nhiêu chi phí để tu bổ ! Về mặt tài chánh mà nói, đây là món quà
có tẩm thuốc độc.
Tôi mong sao giảm bớt các
ủy ban và các buổi hội họp, để có thêm cầu nguyện và can đảm trong Giáo Hội mà
tôi yêu. Người ta thường nêu lên vai trò của đức cẩn trọng, nhưng kỳ thực đó chỉ là sợ hãi. Sự điên rồ nơi sứ điệp Phúc
Âm chết ngộp vì bị từng đống giấy đè lên. Tôi nhớ đến một linh mục Việt Nam, sau
chín năm tù mới được thả tự do, chạy khắp nẻo đường để nói về Chúa Giêsu cho
các bạn trẻ. Và khi tôi nói với vị ấy :"Nhưng coi chừng người ta bắt thì
chết !" Ngạc nhiên, linh mục trả lời: "Anh không thấy sao, ở đây các
bạn trẻ không biết đến Chúa Giêsu". Vài tuần sau đó, vị này lại bị bắt
giữ.
Và ở Campuchia, một cô bé
đi bộ bảy trăm cây số để đón Mình Thánh Chúa trong một thánh lễ
"chui", đem Chúa Giêsu về cho mẹ đang ở tù ... Và Mẹ Têrêxa, trong
lúc chiến tranh bom đạn đã đến thăm vùng Beyrouth bị Syria chiếm ; người ta hỏi
mẹ có đến không, mẹ trả lời: "Nhưng mấy trẻ này cần giúp đỡ, cần săn sóc
và yêu thương !" Can đảm để sống Phúc Âm như thế, trong vùng trời Tây âu
được gọi là "Kitô giáo lâu đời" của chúng ta, dường như quá hiếm hoi.
Người ta nhắc đến một cuộc
khủng hoảng về ơn gọi tại Âu Châu. Câu hỏi này thường nêu lên không đúng. Trước
hết không phải là câu hỏi nêu lên cho các bạn trẻ để họ đáp lời mời của Chúa.
Nhưng phải ưu tiên nêu lên cho mỗi Kitô hữu, cho mỗi cộng đoàn tôn giáo để họ
xét lại lối sống của mình dưới ánh sáng của Phúc Âm và những lời dạy thực sự
trong ấy. Đức Gioan-Phaolô II nêu lên lời chất vấn ấy trong thời buổi hôm nay:
" Tôi khích lệ tất cả môn đệ Chúa Kitô, từ trong gia đình đến các địa
phận, từ các họ đạo đến các dòng tu, phải thành thực xét mình về tinh thần liên
đới đối với những người nghèo".
Chúng ta hãy đặt vấn đề một
cách nghiêm túc. Ngày nay chúng ta đem lại cái gì cho các bạn trẻ ? Chúng ta có
đáp ứng được những gì họ đã đòi hỏi không?
Tôi nhớ có một cô bạn trẻ hỏi tôi :"Tôi không cần thảo luận, lý
thuyết gì cả. Tôi cần một Thiên Chúa lôi tôi ra khỏi hố thẳm của khắc khoải và
sự chết, và giải thích chính con người của tôi. Một Thiên Chúa cứu tôi khỏi tăm
tối và dẫn tôi đến ánh sáng. Tôi cần đến một vị Cứu độ thật sự".
Những nhân chứng tên tuổi
cho thời đại chúng ta
Có hai phẩm trật trong Giáo Hội : Phẩm trật phục vụ,
thừa tác, đó là phẩm trật được truyền chức thánh, và phẩm trật thánh thiện. Một
bên truyền đạt sứ điệp từ chính Chúa Kitô, bên kia lại sống sứ điệp ấy, trong
một cuộc sống tràn đầy. Phẩm trật thánh thiện này như nhạc được đàn lên, hát
lên, còn phẩm trật đầu như bản nhạc viết lên trên giấy với những nốt nhạc. Đối
với một hòa âm, bản nhạc cần phải hay, đầy đủ và đúng nốt. Nhưng bản nhạc chưa
đủ để làm cho ta thưởng thức nhạc. Còn phải nghe, cần phải thấy nhạc được rung
lên thành âm sắc. Đó là vai trò các thánh. Hai phẩm trật này không đối kháng
nhau; chúng bổ sung. Chúng có thể kết hợp trên một con người.
Ngày nay, cần có những vị thánh, nghĩa là những người
điên của Thiên Chúa. Một nhận xét của Antôn Chevrier, người sáng lập các linh
mục Prado ở Lyon, làm tôi giật mình :"Các
thánh không hề lý luận nhiều đến thế. Họ sống theo từng lời dạy của Phúc Âm. Và
vì có nhiều người lý sự quá nên các thánh cũng quá hiếm !" Chúng ta thành
thực cám ơn mẹ Têrêxa, ngày nay, đã dám chỉ cho chúng ta thấy rằng Phúc Âm hữu
hiệu khi ta tin thực và phó thác cho Thiên Chúa để Ngài hành động.
Nói đến các nhân chứng, hơn chục khuôn mặt xuất hiện
trong trí tôi, trẻ có già có, nhưng ai cũng chiếu tỏa suối an bình và rạng rỡ
hân hoan phát xuất từ đáy lòng họ, nơi mà Chúa cư ngụ, Những khuôn mặt trong
chính giới, những Kitô hữu chân thành, cũng làm cho lòng tôi rộn lên niềm vui.
Tôi nghĩ đến Robert Schuman, là một trong những nhân vật gầy dựng nên Cộng đồng
Âu châu Than-Thép. Than, thép đã từng là dụng cụ chiến tranh. Với hai Kitô hữu
đầy xác tín khác nữa, đó là Alcide de Gaspari và Konrad Adenauer, họ đã đưa lời
Thánh Kinh vào sinh hoạt lịch sử: " Họ sẽ lấy kiếm để đúc thành lưỡi
cày" (Is 2, 4).
Còn Edmond Michelet, Bộ trưởng Tư pháp dưới thời Tổng Thống Tướng De Gaulle, cuộc sống ông
gương mẫu đến độ người ta tự nhủ thầm đây hẳn là ơn phúc nhập cuộc. Có nhiều
nhân vật chính trị mà tôi biết, cho thấy trước hết họ là bạn hữu của Thiên Chúa.
Những nhà kỹ thuật hoặc nhà khoa học như Pasteur, James Clerk Maxwell, Ampère
hoặc Planck đã thể hiện đức tin của mình trong cuộc sống, và nhờ thế đưa đức
tin hiện diện trong tất cả các lãnh vực. Tôi cũng nghĩ đến một khuôn mặt lừng
danh đó là chân phước Frédéric Ozanam.
Chúng ta cần những vị thánh mới, và không phải chỉ tìm
thấy trong các đan viện. Trong tất cả các lãnh vực của đời sống xã hội, chính
trị và kinh tế, người ta cần chuyển những đòi hỏi của Phúc Âm thành hành động
cụ thể. Khuôn mặt thánh Gandhi có thể giúp họ ý thức. Trong Giáo Hội chúng ta
có những anh hùng rao truyền Phúc Âm; những Giám mục xuôi ngược đi khắp địa
phận của mình, gậy cầm trên tay gặp gỡ các cộng đoàn, các trẻ em trong các
trường học. Các linh mục, các giám mục trong các xứ phía Đông hoặc ở Trung
quốc, đã là những vị tử đạo vì đức tin, trong các nhà tù, các trại tập trung.
Tôi muốn lên tiếng cám ơn họ. Cám ơn đã lôi tôi ra khỏi nếp cũ để theo gương
yêu thương của họ.
Một vài đoạn trong sách Khải Huyền đến với tôi, như có
giá trị thời sự. Một đoạn nói về tình trạng nguội lạnh trong bức thư gởi Giáo
Hội Laodicée (Kh 2, 14-22) làm tôi lưu ý. Nếu thế giới bệnh, có lẽ vì sự nguội
lạnh này nơi tâm hồn Kitô hữu, dần dần làm cho toàn thế giới giá lạnh. Yếu tố
chính chữa lành thế giới là phải đốt lửa đức tin lên lại. Phục hoạt và canh tân
cuộc sống đạo nhiệt thành, đó là phương thuốc trị tình trạng liệt nhược hôm
nay.
Một bé gái ngồi trước lò sưởi trong phòng khách gia
đình. Lửa tắt dần. Cô kêu to lên
:"Ba, xem kìa ! Lửa nguội rồi! " Đúng thế, lửa của Thánh Thần có đấy,
nhưng nguội đi trong chúng ta. Chúng ta thường "che bít" quá kỹ, với
tỷ lệ cách nhiệt mà các công ty xây cất hẳn phải thèm ! Chỉ cần một cái nhìn
tuyệt diệu của một trẻ thơ hoặc một nụ cười trên khuôn mặt nhăn nheo đầy nếp để
làm tung vỡ bì phu kiên cố đó.
Cốt lõi của việc chuẩn bị Năm Thánh 2000 không phải là
xuất bản nhiều tài liệu hoặc nhân tăng các lý thuyết. Nhưng là thắp lên lại
ngọn lửa đức tin, đức trông cậy và đức ái. Cần một bước nhảy qua vùng trời tự
do và yêu thương, xác tín về sự hữu hiệu của Phúc Âm, và còn hơn thế nữa về
nguồn phong phú vô cùng của Phúc Âm.
Vị thế Mẹ Maria
Việc tôn kính Mẹ Maria dường
như được phục hoạt trong cuộc sống đức tin ngày nay. Đối với tôi, Mẹ đóng một
vai trò hết sức quan trọng. Lúc Chúa chết, Ngài nói với Mẹ Ngài trên Thánh giá:
"Thưa Bà, này là con Bà", và Ngài cũng nói với người môn đệ Ngài
thương (Phúc âm không viết là Gioan) :" Này là Mẹ con". Tức khắc,
người môn đệ ấy đã đón tiếp Mẹ Maria về nhà mình. Người môn đệ mà Chúa Giêsu
yêu, đó là mỗi người chúng ta. Chúa đã ban cho Giáo Hội điều quí giá nhất.
Không phải là một mối lo nào đó hết sức vật chất như : trả giùm bảo hiểm xã hội
cho Bà, nếu không thì không biết bà xoay xở cách nào được ! Trong xã hội thời
ấy, trong mỗi đại gia đình có một người để lo cho các bà góa và các trẻ mồ côi,
chu toàn công việc tương trợ trong gia đình. Mọi sự đều được sắp xếp rồi. Chúa
Giêsu muốn nói đến một điều khác. Đó là Ngài trao phó Mẹ Ngài cho chúng ta để
Mẹ sinh chúng ta ra lại trong cuộc sống mới làm con Chúa. Ngài đã sinh Con Một
của Chúa, Mẹ sẽ sinh tất cả những ai nhờ Con Mẹ sẽ được làm con trai, con gái
của Chúa.
Người ta thường nghĩ là sùng
kính Đức Mẹ là việc làm tùy nghi. Nhưng lời Chúa Kitô trên Thánh giá dường như
chắc chắn, rõ ràng, không quanh co. Một số anh em Kitô hữu chúng ta quả quyết
là phải trực tiếp đi đến Chúa Giêsu, không cần qua trung gian. Nhưng chúng ta
cần biết việc này, Chúa muốn đến gấp để cứu chúng ta. Và khi gấp, thì người ta
dùng đường tắt. Mẹ Maria đúng là "con đường tắt ấy" để nối kết con
người với Thiên Chúa. Mẹ là cửa mở cho Thiên Chúa đến trần gian, Mẹ sẽ là cửa
cho trần gian lên trời. Nếu chúng ta muốn mau mau được gặp Chúa, Mẹ Maria không
phải con đường vòng vòng, nhưng là con đường tắt của con người chạy đến Chúa.
Mẹ chỉ ở đấy theo lời nhắn của Chúa Giêsu để ban Con Mẹ cho chúng ta.
Trong Kinh Thánh, Mẹ hiện diện
trong tất cả mọi giai đoạn quan trọng của lịch sử Ơn Cứu chuộc. Trong lịch sử
Giáo Hội, Mẹ đã luôn có mặt để bảo vệ Đức Kitô. Trong các Công đồng đầu tiên,
khi người ta nói Chúa Giêsu không phải là Thiên Chúa, thì các Công đồng quả
quyết Maria là Mẹ Thiên Chúa. Khi người ta nói Chúa Giêsu không phải là một
người thật, thì xuất hiện những bức tranh đá, tranh gỗ ... trong các nhà thờ
cho thấy Maria cho Chúa Giêsu bú. Mẹ Maria đã được mời đến để bảo vệ vừa Thiên
tính vừa Nhân tính của Đức Kitô trong một ngôi vị duy nhất.
Chúng ta tin Chúa Kitô sẽ đến
lại trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết. Cuộc trở lại trong vinh
quang ấy được Maria chuẩn bị. Mẹ đã từng chuẩn bị lần Chúa đến đợt đầu, Mẹ cũng
là Mẹ trong lần Chúa đến lần thứ hai. Hơn nữa, cuộc chiến tối hậu sẽ diễn ra
chung quanh Mẹ. Chính Mẹ là người phụ nữ trong sách Khải Huyền, người đạp đầu
con rắn "là kẻ thù truyền kiếp".
Trong đời sống riêng tư của
tôi, Maria là bà mẹ dịu hiền, mẹ ấp ủ tôi trong cuộc sống siêu nhiên. Đó là
Maria đã nói :"Xin Vâng" (Fiat). Nhưng tôi ưa gọi Mẹ, hiệp lời với
Giáo Hội :"Maria, nguồn an vui của chúng con". ễ tiệc cưới Cana, Mẹ
nói :"rượu hết rồi". Trong Thánh Kinh,
rượu là tượng trưng của niềm vui. Mẹ quay lại với Chúa Giêsu để tâm sự với Ngài
:" Họ hết rượu", trong ngôn ngữ siêu nhiên, có nghĩa là: "Con
người đã mất nguồn vui. Con ban cho họ niềm vui đi !" Mẹ biết chỉ có Con
Mẹ mới đem lại niềm vui thật cho tâm hồn con người. Giờ chưa đến. Chúa Giêsu sẽ
không đem lại niềm vui nơi những buổi cưới hỏi tiệc tùng con người. Ngài sẽ
không thực hiện việc đó khi đổi nước thành rượu, nhưng Ngài sẽ thực hiện vẹn
toàn khi đổi rượu thành Máu của Ngài. Máu giao ước mới và vĩnh cửu, Máu của
tiệc Con Chiên. "Các người hãy làm điều Ngài nói". Maria chỉ cho
chúng ta biết phải đón nhận niềm vui là dấu hiệu riêng của Kitô hữu. Tôi nghĩ
đến một người nghiện ma túy có lần đã nói :"Nếu Thiên Chúa của người Kitô
hữu là thật, hẳn tất cả họ phải nhảy mừng, vì một Thiên Chúa đem lại cho cuộc
đời một ý nghĩa, và như thế mọi sự lại hoàn toàn khác !"
Kết luận
Hôm nay tôi
muốn hét to giữa thế giới chỉ biết có vật chất, lao đầu vào một chân trời hạn
hẹp buồn thảm này hai chữ: đời đời. Con người sinh ra để hướng về đời đời, lịch
sử có một ý nghĩa : Ơn Cứu độ cho mọi người, Chúa Kitô đến trong vinh quang.
Lịch sử ấy là một trường chiến đấu, nhưng sẽ chấm dứt trong khải hoàn; chiến
thắng này chắc chắn vì đã ban cho chúng ta trong tay rồi. Tình yêu đã thắng sự
chết. Khi chúng ta đọc kinh Lạy Cha chúng con , chúng ta nói :"xin Nước
Ngài đến". Chúng ta nôn nóng chờ đợi Chúa Giêsu Kitô đến, để Thánh Thần
dẫn đưa tất cả chúng ta vào cung lòng Cha chúng ta trên trời, Đấng luôn yêu thương
chúng ta với tấm lòng hiền mẫu. Con người sống không có chủ định, không hướng
đến chân trời hy vọng, là số kiếp con người chạy tìm cái chết, lối thoát dễ
dàng là tự tử. Nhưng tâm hồn chúng ta hẳn khắc khoải hướng đến vĩnh cửu; nó đã
được dựng nên để tìm gặp Thiên Chúa, để thấy Ngài trực diện.
Tất cả các
nhà thần bí đều có ước muốn nhìn Thiên Chúa trực diện. Nỗi khao khát ấy cũng
đốt cháy tâm can chúng ta ... Thế giới là một toàn bộ. Đúng hơn : là một toàn
bộ được xếp đặt đâu đó một cách khách quan. Hoặc con người nhìn nhận Chúa hiện
hữu và khiêm tốn chấp nhận trật tự của công trình tạo dựng của Ngài, ghi khắc
trong chính bản tính tự nhiên của muôn vật, muôn người. Bấy giờ chúng ta sẽ
chứng kiến hoa trái của hòa bình, công lý và liên đới. Tóm lại, con người có thể
thực sự xây dựng một nền văn minh tình thương. Hoặc con người cứ tiếp tục chơi
trò "tập làm phù thủy" với những hậu quả đau thương mà chúng ta đã
biết. Cần phải chọn lựa. Một sự chọn lựa "khổ đau Thánh giá" trong
tất cả ý nghĩa của chữ này. Và thời gian cấp bách ....
Chúa không
ngừng ra dấu cho chúng ta, Ngài luôn ở giữa chúng ta mọi ngày cho đến tận thế,
Ngài đã cho tôi chứng kiến bao phép lạ nơi những con người, những cặp vợ chồng,
gặp thử thách, khổ đau từng biết đưa Chúa lại vào cuộc sống mình. Từng để cho
Chúa Giêsu thiết lập quyền năng yêu thương trong tâm hồn mình, trong tất cả các
lãnh vực sinh hoạt của mình. Chấp nhận Chúa là chấp nhận các Mối Phúc, là khám
phá an lạc. Các Mối Phúc, là trần thế lộn ngược, nhưng lại là sinh lực của sự
sống thật. To be or
not to be, đó là vấn đề. To be (= chân tánh), đó là giải đáp. Và muốn
hoàn thành nhân tánh phải đi đến nguồn suối nóng bỏng và mang lại sự sống. Lửa
Chúa Kitô thắp lên trên nhân thế nay đã nguội. Chúng ta cần phải đốt lửa ấy
cháy sáng lên.
Mục lục
Lời giới thiệu :
TGM PX. Nguyễn Văn Thuận
Lời tựa:
Blandine de Dinechin
1- Sau cơn tỉnh ngộ, một nếp sống
mới
2- Cuộc sống ẩn dật
3- Ở trong Chúa Kitô
4- Can đảm sống Phúc Âm
Kết luận
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét