Joseph Doré
Giêsu
Kitô
Định Hướng Tùng Thư
2004
Người dịch Nguyễn Đăng Trúc
Đọc lại Trần Duy Nhiên
Đỗ Tân Hưng
Dịch từ bản Pháp văn «Jésus-Christ»,
Les Éditions du Cerf, Paris, năm 1992
Xuất bản với giấp phép của
TGM Joseph
Doré và « Les Éditions du Cerf »
ISBN 2 – 912554 – 30 – 6
Định Hướng Tùng Thư
xuất bản 2004
13 g rue de l’ILL, F- 67116 Reichstett, France
Joseph Doré
Giêsu-Kitô
Định Hướng Tùng Thư
13
g rue de l’ILL, F- 67116 Reichstett,
France
xuất
bản 2004
Người dịch Nguyễn Đăng Trúc
Đọc lại Trần Duy Nhiên
Đỗ Tân Hưng
Dịch từ bản Pháp văn «Jésus-Christ»
do Les Éditions du Cerf, Paris, năm 1992
Xuất bản với giấp phép của
TGM Joseph
Doré và « Les Éditions du Cerf »
ISBN 2 – 912554 – 30 - 6
Giám mục Joseph Vũ Duy Thống
Chủ tịch
Ủy Ban Văn Hóa
Hội Đồng
Giám Mục Việt Nam
Ngày 22 tháng 12 năm 2002
Kg Quý anh
Nguyễn Đăng Trúc, Trần Duy Nhiên, Đỗ Tân
Hưng
Tôi vừa nhận được bản dịch tiếng Việt cuốn Giêsu-Kitô của Đức Tổng Giám Mục Joseph Doré mà quý anh có công
chuyển dịch và gữi tặng. Tôi cám ơn cử chỉ quí hóa các anh dành cho tôi, và nhân
dịp nầy tôi chân thành hoan nghênh những cố gắng của quý anh trong nổ lực phát
huy công cuộc đào tạo Kitô-giáo của Giáo Hội.
Tác giả tập sách nhỏ nầy là một chủ chăn trong Giáo
Hội và cũng là một trong những nhà thần học trụ cột hiên nay. Ngài là giáo sư
thần học và là thành viên của Ủy ban quốc tế về thần học, nỗi bật trong những công
trình nghiên cứu về Kitô-học và thần học các tôn giáo.
Tập tài liệu thật ngắn gọn, trình bày một cách giản
dị những nội dung thiết yếu về đức tin kitô-giáo qua lối nói và cách suy nghĩ của
con người ngày nay.
Tôi cầu mong tài liêu nầy được phổ biến cho đồng bào
Việt-Nam chúng ta, lương cũng như giáo, để đức tin Kitô-giáo được hiểu theo đúng
nội dung mà Giáo Hội muốn truyền đạt.
Kính xin Thiên Chúa ban nhiều ơn phúc cho quý anh và
gia quyến.
Trân trọng
+ Joseph Vũ Duy Thống
I
Giêsu ?
Đã từ lâu nhiều Kitô-hữu có cảm tưởng là khi nói mình tin Thiên
Chúa tức là đã diễn tả được điều thiết yếu về đức tin của mình. Nhưng sự thể đã
thay đổi.
Hẳn nhiên Kitô-hữu luôn luôn tin vào Thiên Chúa! Nhưng một nền giáo lý
trực tiếp dựa vào Kinh Thánh hơn, cũng như lối nói thông dụng trong lễ nghi cử
hành Thánh Thể .v.v. đã lưu ý đến một Đấng có vị thế rất quan trọng trong đức
tin, bên cạnh « Thiên Chúa » (và « Giáo hội ») : đó là
Đức Giêsu.
Như thế phải chăng trong quá khứ người ta đã quên Ngài rồi chăng? Hẳn
nhiên là không. Nhưng, nói cho đúng, người ta không phân biệt giữa Ngài và
« Thiên Chúa ». Chẳng hạn không phải là người ta từng nói « trao
Mình Thánh Chúa »[1]
để chỉ việc « hiệp lễ, trao mình Đức Kitô »[2] ?...
Còn về nhân tính của Đức Giêsu thì sao ?
Người ta cũng không hờ hững bỏ qua đâu. Người ta vẫn luôn nhắc đến sinh nhật
Đức Giêsu "trong máng cỏ " vào mùa Giáng sinh, cái chết của Ngài trên
thánh giá " ngày thứ sáu tuần thánh ", và giữa hai sự kiện nầy còn có
những lời giảng dạy, các dụ ngôn, các phép lạ .v.v. Nhưng tất cả những điều đó
đều được bao bọc và cuốn hút vào « một cảnh vực thần linh » dường như
là thế giới riêng của Đức Giêsu. Rốt cục, nếu có một khía cạnh nhân loại nơi
Đức Giêsu, thì đó là một nhân tính hết sức đặc biệt. Người ta đã thấy nhân tính
đó « được thần hóa», đậm nét thần thiêng đến độ không còn có thể xuất hiện
giống như nhân tính chúng ta. Người ta có nghĩ rằng những khổ đau và cái chết
của Ngài trên thánh giá có thể nào đúng là những khổ đau thật sự của con người,
là một cái chết thật sự của con người không ?
Về điểm nầy, giáo lý và các lối
giảng dạy về đạo đã bắt đầu tu sửa.
Người ta đã trả lại cho Đức Giêsu, con người Giêsu, vị trí trung thực, vị thế
trung tâm trong đức tin Kitô giáo. Thật vậy, kinh Tin-kính không phải đã nói
rằng : « Tôi tin Thiên Chúa (...) và Chúa Giêsu-Kitô con một Thiên
Chúa Chúa chúng tôi, (...) đã nhập thể bởi Trinh Nữ Maria và đã
làm người » hay sao?
Nói tóm, Kitô hữu không những tin Thiên Chúa, nhưng còn tin Đức
Giêsu-Kitô : Họ tuyên xưng rằng, nếu Đức Giêsu-Kitô thật sự là Thiên
Chúa, thì đồng thời Ngài thật sự là con người.
Tại sao lại là Giêsu ?
Như vậy thì hẳn tốt đẹp rồi. Nhưng lại còn một câu hỏi nền tảng nầy đặt
ra : xét cho cùng, lối tin tưởng như vậy không tạo quá nhiều điều phiền
toái hay sao ?
Tin Thiên Chúa thôi thì không
phải là dễ, nhưng dường như cũng nhờ tin có Ngài mà hiểu được nhiều chuyện xảy
ra trong cuộc sống. Vì thế người ta có thể quyết tâm tin vào Ngài : quyền
năng vô tận và sự thiện hảo vô biên của Ngài có thể mang lại cho con người
chúng ta hy vọng và can đảm sống. Nhưng làm sao tin được một con người như
chúng ta, Ông Giêsu ấy, lại là Thiên Chúa ? Làm sao quan niệm được một việc như
thế ?
Nếu Đức Giêsu là một đấng siêu phàm, thì chỉ tin rằng chính Ngài đã tin vào Thiên Chúa, đã nói
đến Thiên Chúa và đã sống cho Thiên Chúa một cách hết sức gương mẫu, nhưng trên
một bình diện thuần túy con người mà thôi, như vậy không đủ hay sao ? Hơn
nữa, tại sao lại muốn biệt đãi Đức Giêsu
so với tất cả những vị tiên tri lỗi lạc mà lịch sử đã chứng kiến như Maisen,
Đức Phật, Đức Mahomet v.v? Tại sao đặt
Đức Giêsu lên một tầm quan trọng quá như thế, trong khi biết bao nhiêu người
thiện chí tìm kiếm Thiên Chúa, và có thể đã tin, nhưng không hề biết đến Ngài,
Đức Giêsu nầy, và có lẽ sẽ không bao giờ biết Ngài ? Và cuối cùng tại sao
nói rằng Ngài là Thiên Chúa và là Đấng Cứu Độ,
khi người ta thấy bước đi của thế giới tương đối cũng chả thay đổi được
bao nhiêu, nhất là ngay cả nơi những người tuyên dương Ngài : những
Kitô-hữu ?
Càng đặt vấn đề, câu hỏi càng dồn dập. Vâng, tại sao lại là Đức Giêsu,
ít nhất tại sao lại là Đức Giêsu như người ta trình bày cho chúng ta?
Một Giêsu huynh đệ với mọi người, đối đầu với mọi bất công, trung kiên với lý
tưởng của mình cho đến chết, vâng ! như thế thì không có gì thắc mắc; rồi người ta lại nói: một Giêsu không những
là một con người gương mẫu nhưng còn là một vị tiên tri duy nhất đối với chúng
ta ; trong bối cảnh những người Tây Phương, đến đây còn quan niệm
được! Nhưng Giêsu là người và là Thiên
Chúa, người-Chúa, Con duy nhất của Thiên Chúa và Đấng Cứu Độ duy nhất
cho mọi người : làm thế nào điều nầy xảy ra được ? Tại sao lại Đấng
Giêsu nầy ? Tại sao lại một vị Giêsu như thế ?
Giêsu, bởi vì...
Đến đây, người ta có thể trả lời: Tại sao Đức Giêsu ấy ư ? Vì toàn bộ Truyền thống Giáo hội trình bày
Ngài cho chúng tôi như thế ! Và có thể nói thêm là : vì hôm nay những
người có sứ mệnh, thẩm quyền trong Giáo hội : giáo hoàng và các giám
mục luôn truyền đạt cho chúng tôi cũng
một giáo huấn y như thế.
Hẳn nhiên, không tín đồ Công giáo nào không biết điều đó. Nhưng đừng vội
qua trang nhanh quá, vì vấn đề không đơn giản tí nào đối với mọi người, và cũng
có thể có một lối khác hay hơn để khởi đầu.
Bây giờ, tạm quên các « chứng lý quyền uy » để chỉ nói
thế nầy : Tại sao Đức Giêsu ư ? Thưa rằng trước hết vì Ngài đã và
đang chiếm một vị thế lớn lao trong lịch sử, lịch sử của chúng ta cũng như lịch
sử toàn nhân loại : do đó, truy cứu để hiểu tại sao lại như thế không phải
là điều nên làm hay sao ?
Và vì những gì chúng ta biết được về Ngài không thể cho phép chúng ta dửng
dưng : ai đã từng nói về thương yêu như Ngài ; ai đã nối kết tin Thiên
Chúa và phục vụ tất cả người anh em trong gia đình nhân loại vào
tình thương yêu ấy ; ai đã bênh đỡ thân phận người nhỏ bé, yếu đuối, nghèo
nàn, bịnh tật trăm đường như Ngài ; ai luôn nhắc nhở con người về những
khát khao và những ràng buộc đạo đức trường cửu của thân phận con người trên
dương thế như Ngài ; và ai khai mở cho con người nơi trần gian nầy
niềm hy vọng vào cuộc sống có thể vượt thắng dứt khoát sự chết như Ngài ?
Và cuối cùng, Ngài đã không chỉ nói, nhưng đã là người đầu tiên làm
chứng lời nói bằng cuộc sống của mình. Và một chuỗi dài những khuôn mặt sáng
chói của nhân loại nối gót Ngài : từ thánh Phaolô đến thánh Augustinô và từ
thánh Irénée đến thánh Catarina thành Siênna ; Phanxicô Assisi và Têrêxa Avila,
Charles de Foucauld và Têrêxa Hài Đồng Giêsu, Gioan XXIII và Martin Luther
King, dom Helder Camara và mẹ Têrêxa.
Toàn bộ dữ kiện đó không thể dẫn lối cuộc sống chúng ta hay sao ? Không nhắc nhở chúng
ta cần làm điều gì, cần trông đợi điều
gì hay sao ? Kỳ cùng, dường như ít
có nhân vật nào đã đề xướng và mãi đem đến cho lịch sử toàn thể nhân loại một
nội dung và một tầm vóc ý nghĩa như vậy !
Đó là những lý do mà đối với Giêsu ta không thể chỉ dừng lại ở mức nầy
thôi.
Đó là thắc mắc thúc đẩy ta truy cứu thêm và tự
hỏi: Làm thế nào mà Đức Giêsu có thể nói và làm được những việc ấy, và tại sao
ngày hôm nay Ngài còn giữ một tầm quan trọng như thế trong cuộc sống biết bao
nhiều người? Cái gì đã giúp Ngài làm được ?
Nói tóm lại: « Vậy,
ông ấy là ai ? » (Mc 4,41.)
... Và đến đây vào khúc cuối của chương dẫn nhập ngắn nầy, chúng tôi có
thể gỡ rối được thắc mắc đã nêu lên : « Giêsu ư ? ». Chúng
tôi xin trả lời : Vâng, Giêsu !
II
Giêsu
khởi từ Giêsu
Từ
thủa ban đầu
Điều làm người ta ngạc nhiên hơn cả về Đức Giêsu kỳ thực cũng là thắc
mắc tại sao «công cuộc »[3]*
của Ngài có thể mãi tiếp tục đến ngày hôm nay. Không những ký ức về Ngài không
phôi pha qua bao thế kỷ, mà ngày nay trên thế giới vẫn còn một nhóm từng mấy
trăm triệu người, không khác gì những người khác, ngoài việc gắn bó thật sự với
Ngài.
Ngay sau Giêsu
Để làm sáng tỏ sự kiện làm thế nào mà « công cuộc của Đức
Giêsu » luôn tiếp diễn, ta thử trở lại ngọn nguồn. Hẳn nhiên là quay về
chính Đức Giêsu ; nhưng – và trong một nghĩa nào đó phải nói là trước hết
- phải tìm hiểu việc gì xảy ra ngay sau
khi Ngài đã khuất.
Vì kỳ thực Giêsu là người, và ngài đã chết thật. Vả lại, Ngài không bao
giờ viết điều gì để lại cả. Nếu sau hai mươi thế kỷ có điều gì liên quan đến
Ngài mà còn đến được với chúng ta, thì vì có « một sự việc gì đó » đã
xảy ra sau khi Ngài mất. Nếu không thì chắc những gì liên quan đến Ngài hẳn chỉ
giữ kín trong huyệt mộ mà thôi. Như vậy, điều gì thực sự đã xảy ra « ngay
sau » Giêsu ? Đó là câu hỏi cần được đặt ra nếu muốn có một may mắn
nào đó để đi xa hơn.
Các môn đệ
Khởi đầu công việc, Đức Giêsu
tuyển môn đệ*. Ngài đào tạo họ khi Ngài còn ở với họ và đã trao cho họ
phận vụ tiếp tục công việc của Ngài một ngày nào đó, và thật sự họ đã thực hiện
sau khi Ngài ra đi. Nên chính nhờ họ và
chỉ nhờ có họ, mà từ đó về sau chúng ta mới đến được với Giêsu, bởi lẽ chỉ nhờ
vào họ mà công cuộc* của Đức Giêsu mới được tồn tại... Nhưng phải xem bằng cách
nào sự việc lại diễn tiến như thế ! « Các môn đệ » sở dĩ theo
Đức Giêsu vì nghĩ rằng nghe lời Ngài dạy và xem
việc Ngài làm, hẳn họ sẽ tìm được ý nghĩa toàn hảo cho cuộc đời của
họ : « Thưa Thầy, chúng tôi biết theo ai ? Thầy có những
lời hằng sống » (Gioan 6, 68). Nhưng nay trước mắt họ, vị thầy vô song nầy
đã bị xử tử, bị toàn Israel* ruồng bỏ : hoàn toàn không phải là
những gì họ mong đợi ! Hơn nữa, họ là người Do-Thái tốt lành, tin một
Thiên Chúa và một Thiên Chúa duy nhất mà mắt người trần không thể nào
thấy được, Đấng « ngự nơi ánh sáng không hề với đến » (1 Gioan
6,16). Thế nhưng khi chúng ta đọc lại những
bản văn của Tân Ước do chính
"
Đức Giêsu đã làm nhiều dấu lạ khác nữa trước mặt các môn đệ ; nhưng những dấu
lạ đó không được ghi chép trong sách nầy. Còn những điều đã được chép ở đây là
để anh em tin rằng Đức Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà
được sự sống nhờ danh Người "
(Ga 20, 30-31)
các Tông đồ
hoặc môn đệ trực tiếp của họ đã viết, thì họ lại minh xác với chúng ta rằng Giêsu thực sự là Con Thiên
Chúa !
Như vậy, những người môn đệ đầu tiên đã phải thắng vượt ít nhất hai trở
ngại hết sức cam go để có thể truyền đạt những gì họ loan báo cho chúng ta về
Đức Giêsu. Trước hết là thảm trạng[4]
nơi cái chết của Giêsu, một khi trước đây chính Ngài đã từng dấy lên niềm hy
vọng nơi họ; tiếp đó là việc họ không
thể nào làm được khi nhìn nhận một Thiên Chúa ngoài Đức Giavê.
Nhưng các bản văn cũng cho chúng ta hay là có hai điều giúp họ vượt
thắng được các trở ngại đó.
Một mặt là niềm thâm cảm họ tiếp nhận
nơi Giêsu trong thời gian sống với Ngài trước đây : ngày ngày, Ngài
đã dấy lên nơi tâm hồn họ sự ngạc nhiên và, biết bao lần họ thắc mắc về
Ngài. Khi thấy việc ngài làm (Mc 2,12), họ tự hỏi : « Làm sao việc đó
xảy ra được ? ». Khi nghe Ngài nói (Mc 6,2 ; xem 1,27), họ sững
sờ : « Do đâu mà Ngài biết
điều ấy ? ». Và cuối cùng : « Ngài là ai
vậy ? » (Mc, 4,41).
Mặt khác, một thời gian ngắn sau khi Đức Giêsu chết, họ đã xác tín là
Ngài đã đi qua sự chết, đã được phục sinh : « Giêsu
Nazareth, con người ấy (...) đã từng bị giao nộp (...), Thiên Chúa đã làm cho
Ngài sống lại» (CV 2,22-24).
Chưa đến lúc chúng ta đặt vấn đề xem thử chính chúng ta thật sự có tin
vào sự sống lại của Đức Giêsu hay không ; chúng ta sẽ trở lại vấn đề đó ở
phần sau. Lúc nầy chúng ta cố gắng nắm bắt điểm quan trọng nhất đối với niềm
tin của các môn đệ vào Đức Giêsu : Chính vì họ đã tin vào sự sống lại
của Đức Giêsu, nên họ đã nói và đã viết về Ngài như họ đã làm. Và chính vì
thế mà « công cuộc cuả Đức Giêsu* » đã tồn tại và đến với chúng ta.
Phaolô chẳng hạn diễn tả minh bạch thế
nầy : « Nếu Đức Kitô không sống lại, đức tin của anh chị em vô
ích (...). Nếu chỉ vì cuộc sống nầy thôi mà chúng ta đã đặt niềm hy vọng của
chúng ta vào Đức Kitô, thì chúng ta là những kẻ khốn cùng hơn ai hết » (1
Cr 15,17-19).
Đến đây, có thể nào xác định xem các môn đệ ấy đã nói và viết gì về
Giêsu hay không? Về thắc mắc nầy, chúng ta phải quay về Tân Ước.
Tân Ước
Bộ Tân Ước, gồm bốn bản Phúc Âm
(Mathêu, Marcô, Luca và Gioan), các thư của các tông đồ hoặc thánh thư
(của Phaolô, Gioan, Phêrô...) và sách Khải huyền, ghi lại chứng từ trực tiếp
của những người đã sống với Đức Giêsu, đã « thấy, nghe, sờ đụng » (1
Gioan 1,1) Ngài. Thử lược xem Đức Giêsu
mà họ muốn giới thiệu với chúng ta như thế nào.
Là
một con người
Họ nói đến một con người. Người ta biết đến cha mẹ Ngài (Mc 6,3) và nơi
sinh của Ngài (Mt 2,1). Ngài biết mệt nhọc (Gioan 4,6) và biết đói khát (Mc
11,12). Ngài đã sống tình bè bạn (Gioan 11,36) và niềm hân hoan (Lc 10,21), âu
yếm (Mc 10,13-16) và thán phục (Mt 8,10). Có lúc Ngài tức bực và nổi giận (Mc
2,5), và không biết tương lai (Mc 13,32) và ngay cả bị cám dỗ (Mc 1,13). Ngài
buồn phiền khi mất một người bạn (Gioan 11,35), khi quê hương Ngài thất vọng,
khi tương lai của Ngài đáng lo âu (Lc 19,41 tiếp theo). Ngài từng khắc khoải
trước khổ nạn (Mc 14,33), và kinh nghiệm thân phận bị bỏ rơi trong thử thách
tột bực, sự chết (Mc 15,34). Xuyên qua
những tình cảnh đó, Ngài đã sống như một người tin, tin tưởng vào Thiên Chúa
ngay trong những giây phút đen tối nhất (Mc 14,36), và đã chết, phó thác số
phận mình vào Thiên Chúa, đặt hết hy vọng vào Thiên Chúa ngay trong tình cảnh
tuyệt vọng (Lc 23,46).
Là
Thiên Chúa và Đấng Cứu Độ
Tuy nhiên, không bao giờ Đừc Giêsu lại được giới thiệu chỉ như một người
ở giữa những người khác. Ít nhất cần phải thêm hai đặc điểm nầy nếu muốn kể lại
đúng chân dung mà Tân Ước trình bày về Đức Giêsu. Trước hết,
các bản văn nhìn nhận nơi Đức Giêsu, con người Nazareth
nầy, một lý lịch* Thiên Chúa[5]
không hơn không kém. Thật thế, không những Giêsu được giới thiệu như (là) một
vị tiên tri* rất lạ lùng, chưa bao giờ
từng thấy một vị nào như thế (Mc 2,12), và như Con của con người*, siêu phàm và
vinh hiển mà tiên tri Daniel đã từng loan báo (Mt 8,20 ; xem Đn
7,13) ; nhưng Ngài còn là « Chúa* »[6] , là Con* [7]
Duy nhất
của Thiên Chúa
(Mc 1, 11) và là « Hình ảnh* » [8] của Thiên
Chúa (Cl 1, 15) ; và cuối cùng là « Lời* »[9]
ở « với Thiên Chúa » (Gioan 1,1b) và là « Thiên Chúa »
(Gioan 1,1c). Tóm lại: Ngài được nói đến
là « Thiên Chúa». Thứ đến, Giêsu được gắn với phận vụ và vai trò Đấng
Cứu Độ, và Đấng Cứu Độ mọi người[10].
Vì để cứu độ thế giới mà Ngài đã được gửi đến (Gioan 3,17) và Ngài đã đến (Mc
2,17). Ngài có những lời hằng sống (Gioan 6, 68). Ngài đã nộp mạng mình (làm " hy tế
") để "nhiều người " được cứu độ (Mc 14,24). Nên Ngài là
« Con Chiên * tế lễ », Đấng « gánh lấy và xóa tội trần
gian » (Gioan 1,29). Ai tin vào Ngài và đi theo Ngài sẽ được cứu độ (Gioan
6,40) ; ai chịu phép rửa nhân danh Ngài (Mc 16,16) và đón
nhận thân xác Ngài (Gioan 6,51) thì sẽ có sự sống đời đời.
Tóm lại : « Không có một danh nào khác dưới bầu trời nhờ đó mà chúng ta có thể được cứu độ »
(CV 4,12).
«
Viên đại đội trưởng đứng đối diện với Đức Giêsu, thấy người tắt thở như vậy
liền nói : ‘ Quả thật, người nầy là Con Thiên Chúa’ »
(Mc 15,39)
Chúng ta thử tóm kết: Đức Giêsu đã được giới thiệu như một tiên tri đến
từ Nazareth, đồng thời như Con riêng
của Thiên Chúa duy nhất và là Đấng Cứu độ chân thật
của mọi người. Đó là
chứng tá của những môn đệ đầu tiên của
Ngài về Ngài, mà Tân Ước lưu lại cho chúng ta. Ai đọc sách ấy hẳn có thể thấy
như vậy. Nhưng chúng ta sẽ còn sớm nhận ra rằng sự thể không đơn giản!
Qua
các thế kỷ
Chúng ta vừa kiểm chứng xem từ Đức Giêsu đã chuyển qua thế hệ trực tiếp
đi sau Ngài như thế nào, để biết bằng cách nào «công cuộc* » của Đức Giêsu
có thể tiếp tục đến với chúng ta. Nay vấn đề đặt ra cho chúng ta là tìm hiểu
xem, qua suốt mười chín thế kỷ kể từ
thời các nhân chứng trực tiếp của Đức Giêsu đến chúng ta, người ta đã tiếp tục
hiểu và trình bày chân dung và thân phận Ngài như thế nào. Việc làm nầy có thể
giúp chúng ta hôm nay hiểu rõ hơn về Ngài.
« Thật vậy, ý của Cha tôi là tất cả những ai thấy người Con và tin
vào người Con, thì được sống muôn đời và tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày sau
hết » (Ga
6, 40)
Thiên Chúa thật và người thật
Kitô hữu đã phải đối đầu rất sớm với những sai trật–những lạc thuyết* [11]-
trong phương cách hiểu chứng tá của Tân
Ước liên quan đến Đức Giêsu.
Điểm đáng lưu ý là lạc thuyết đầu tiên là một thuyết lý không nhìn nhận
Đức Giêsu-Kitô có một thân xác thật sự. Và tiếp đó, suốt gần năm thế kỷ, các
giáo phụ của Giáo hội* phải chống lại với các trào lưu liên tục có khuynh hướng
khước giảm về nhân tính thật sự của Đức Giêsu. Chẳng hạn người ta ngại
phải nhìn nhận việc Đức Giêsu có một linh hồn và một ý chí con người như chúng
ta. Vì nếu nhìn nhận như vậy là giả thiết rằng Ngài hẳn không biết đến một số
việc và phải mang chịu những khổ đau. Làm sao chấp nhận được điều nầy mà không
phạm đến thiên tính trọn đầy mà ta từng muốn nhìn nhận nơi Ngài ! Đây là
điểm đầu tiên : Giáo hội vào các thế kỷ đầu luôn chống lại các trào lưu
nầy. Giáo hội quả quyết rằng Đức Giêsu là người thật.
Trường hợp tương tự và là điểm thứ hai cũng quan trọng mà Giáo hội không
bao giờ nhượng bộ, đó là chân lý về thiên tính của Đức Giêsu. Giáo hội
đặc biệt đã phải xác quyết chân lý nầy vào đầu thế kỷ thứ tư. Thượng phụ Ariô
thành Constantinôpôli nêu lên rằng Ngôi Lời* đã nhập thể* nơi Đức Giêsu (xem
Gioan 1,14) không thật sự là Thiên Chúa. Ngài cũng chỉ là một thụ tạo thôi.
Nhưng, ngài là một thụ tạo tuyệt đối duy nhất không giống với bất kỳ ai,
là thụ tạo đầu tiên, và từ thụ tạo nầy
mọi thụ tạo khác sau đó đã được tạo dựng và tiếp tục được tạo dựng. Lý thuyết
nầy đi ngược lại một cách quá rõ rệt nhiều điều trong Tân Ước nên nó tức khắc
gây nên những phản ứng chống đối mãnh liệt (chung quanh giáo phụ nổi tiếng
Athanase thành Alexandria). Nhưng âm hưởng vấn đề dấy lên khắp Đế quốc đòi hỏi
một một giải pháp triệt để nhằm chận đứng : tập họp đông đảo tối đa các
vị « lãnh đạo đức tin », tức là các giám mục, để
giải quyết một lần dứt khoát và rõ ràng. Và « công đồng » đầu tiên,
công đồng Nicée, được triệu tập vào năm 325. Bản văn mà các nghị phụ công đồng
Nicée chuẩn nhận được công đồng Constantinôpôli (năm 381) tu chính và bổ sung
và tiếp tục được Kitô-hữu đọc vào các ngày lễ chủ nhật. Nghĩa là bản văn vô cùng quan trọng. Được gọi
là « bản tín điều[12]
công đồng Nicée-Constantinôpôli ». Bản văn chống lại lạc thuyết Ariô và
xác quyết rằng Con duy nhất của Thiên Chúa, Ngôi Lời của Thiên Chúa nhập thể
trong Đức Giêsu-Kitô, « đồng bản tính* với Đức Chúa Cha». Nghĩa
là : Ngài thực sự thuộc về «cảnh vực Thiên Chúa »[13],
Ngài là thành phần của chính thực tại Thiên Chúa[14],
Thiên Chúa không là « Thiên Chúa » nếu không có Ngài [15].
Nói cách khác : Đức Giêsu là người thật và cũng là Thiên Chúa thật.
Hai bản tính và một ngôi vị
Sau công đồng Nicée, còn cần thêm nhiều cuộc tranh luận và một vài công
đồng* khác nữa để thấy rõ hơn vấn đề trực tiếp dấy lên từ những soi sáng vừa
mới thực hiện được trong bản tín điều nói trên : Vấn dề hiệp nhất bản tính của Đức Giêsu-Kitô.
Làm sao cùng một hữu thể đồng thời là Thiên Chúa thật và con người
thật, mà không chia phân thành đôi ? Mặc dầu những công đồng kế tiếp
nêu lên nhiều điểm minh xác quan trọng,
nhưng công đồng CHALCÉDOINE họp năm 451 đã soạn bản văn (bản « qui
định »[16] ),
được nhìn nhận sau nầy như lề luật đức tin liên quan đến Đức Giêsu-Kitô :
Chúng tôi kêu gọi (...) để tuyên xưng một Chúa Con duy nhất và chân
thật, Đức Giêsu-Kitô Chúa chúng ta ; toàn vẹn về thiên tính, toàn vẹn về
nhân tính ; thật sự là Thiên Chúa và thật sự là người, được kết thành bởi
một linh hồn có lý tính[17] và
một thân xác ; đồng bản tính* với Đức Chúa Cha trong thiên tính của Ngài,
đồng bản tính với chúng ta trong nhân tính của Ngài ( ...) Trong hai bản tính*,
không hỗn hợp và không đổi thay, không phân chia và phân ly [18]
(...) Những đặc tính của hai bản tính luôn toàn vẹn và gặp nhau trong một vị*[19]
duy nhất hoặc ngôi* (...) [20]
Nói cách khác :
·
Đức Giêsu là người
« giống với chúng ta trong mọi sự trừ tội lỗi » (Xem Dt 4,15), Ngài tham gia vào bản tính* con
người, nghĩa là : tham gia vào cùng « khung hữu thể [21] »
của con người.
·
Nhưng Ngài cũng tham
gia bản tính Thiên Chúa, nghĩa là : ngài đồng thời tham gia
« cảnh vực hữu thể » của chính Thiên Chúa.
·
Nhưng, hai sự
tham gia [22]
nầy được thực hiện, hướng dẫn và điều hành bởi một ngôi vị *, đó là Ngôi
Lời * Con Thiên Chúa. Sự hiệp nhất và hữu thể của Đức Giêsu-Kitô được thực hiện
nơi Ngôi Vị nầy.
·
Tuy nhiên, ngôi vị
thiên tính ấy hướng dẫn, điều hành và tác động mỗi bản tính (trong
hai bản tính) theo những khả năng riêng
và những đặc tính cá biệt của mình. Vì
vậy mà nên nói rằng nhân tính của Đức Giêsu thật sự sinh hoạt, trong mọi sự [23],
« theo tính con người». Nhưng cũng cần thêm rằng những gì nhân tính đó làm
và chịu đựng đều được hướng dẫn, nâng đỡ và chu toàn bởi chính Ngôi Lời-Con
Thiên Chúa.
Đó là tóm kết những qui định về
đức tin vào mầu nhiệm Đức Giêsu-Kitô, sau nhiều thế kỷ, từ các thánh Tông đồ
cho đến thời chúng ta.
Cộng đồng Kitô-giáo và thời tân kỳ
Qui định của công đồng Chacédoine chỉ đạo suy tư về Đức Giêsu-Kitô cho
đến ngày nay. Về điểm nầy cũng như trong nhiều lãnh vực khác, thời Trung cổ và
đặc biệt là Thánh Tôma Aquinô* đã đóng một vai trò quan trọng. Qua gần mười lăm
thế kỷ người ta lặp lại lối đặt vấn đề của họ, cố soi dọi hai điểm chính
yếu : vấn đề « hiệp nhất trong cùng một ngôi vị* [24]»
(làm thế nào con người và Thiên Chúa có thể kết hợp làm một nơi Đức Giêsu-Kitô,
mà Thiên Chúa lại không tiêu hút hết con người ?) ; và « mầu
nhiệm cứu chuộc* » ( làm thế nào Đức Giêsu và việc Ngài đã làm có thể mang lại sự cứu độ cho toàn thể thế
giới ?). Những nhà thần học hôm nay đặc biệt đưa thêm những suy tư về
" ý thức của Đức Kitô", vào những vấn đề ấy : làm thế nào con người
Giêsu đã có thể ý thức rằng mình là Thiên Chúa?
Nói chung, nỗ lực chính trong nhiều thế kỷ là bình chú, lặp lại và nối
tiếp giáo huấn của công đồng Chalcédoine (và những gì Thánh Tôma và thần học
thời Trung cổ đã nói về qui định nầy).
Vào thời tân kỳ lại xuất hiện nhiều đối kháng. Nhiều thắc mắc liên tục
và dồn dập đặt ra :
· Kỳ cùng, tại sao phải chấp nhận một truyền thống* và một giáo huấn* như là những thẩm quyền duy nhất về chân
lý : Kinh Thánh và cảm nghiệm cá nhân không đủ hay sao ?
(Luthêrô*.)
· Tại sao lại phải nhìn nhận một thẩm quyền đặc biệt ngay cả nơi Kinh Thánh:
lý trí không đủ để con người đạt đến chân lý sao? (triết học ánh sáng*, học
thuyết duy lý).
· Cuối cùng, tại sao cứ mãi bận tâm về các lối suy tư : không cần để
ý đến điều mà lịch sử có thể giúp chúng ta hiểu về Đức Giêsu hay
sao ? Vì không phải rằng Đức Giêsu
là người, nên cũng là một nhân vật (của) lịch sử như bao nhiêu vị khác hay
sao ? (thế kỷ XIX, khi nền khoa học về lịch sử phát
sinh ; xem phần sau).
Sự thể không phải là tình trạng song hành, đôi đường đôi nẻo xa lạ với
nhau, - một bên là « truyền
thống » của cộng đồng Kitô-giáo, bên kia là phe chống đối của thời tân kỳ
-; nhưng mỗi bên tìm cách bảo vệ và cố thủ lập trường của mình sợ bên kia tấn
công...
Các nhà minh giải Kinh Thánh và các nhà thần học ngày nay
Vào thời đại chúng ta, đối diện với những gì đang bị đặt lại thành vấn
đề, phía Kitô-giáo, Tin lành* cũng như Công giáo*, người ta đã thực hiện được
một công trình to lớn khi nêu lên lại
những câu hỏi liên quan đến Đức Giêsu mà tâm thức thời đại đang đặt ra. Những
nhà chuyên môn về Kinh Thánh - những nhà minh giải* Kinh Thánh – truy cứu lại
Tân Ước. Họ thiết định nhiều dữ kiện trong đó có một số bằng chứng rất quí,
không thể nào hoài nghi được nữa, có thể giúp người ta dựa vào một cách an
toàn. Những dữ kiện nầy vừa liên hệ đến
Đức Giêsu vừa liên hệ đến những lý do đã thúc đẩy các thế hệ Kitô-hữu đầu tiên
trình bày về Ngài như họ đã làm. Còn phía các nhà thần học*, thì họ dựa vào các
nhà chú giải Kinh Thánh để cố gắng diễn tả đức tin muôn thủa một cách linh hoạt
hơn, trả lời cho những thắc mắc và chống đối dấy lên từ con người ngày hôm nay.
Họ có lối tiếp cận mới và áp dụng những phương pháp mới mang lại lợi ích cho
chúng ta.
Phần lớn những tên tuổi về thần học hiện thời đã viết về Đức Giêsu-Kitô
như thế. Trước hết ở Âu Châu và Mỹ Châu.
Nhưng ngày nay ở Phi Châu và Viễn Đông có nhiều nỗ lực rất đáng lưu ý nhằm
trình bày «những khuôn mặt của Đức Giêsu » vừa đúng với đức tin
của Giáo hội vừa thích ứng với các nền văn hóa của các dân tộc địa phương. Cuối
cùng không ai mà không biết đến vị thế dành cho Đức Giêsu-Kitô trong trào lưu
thần học rất quan trọng mới đây, chúng tôi muốn nói đến « thần học giải
phóng », ở Châu Mỹ Latinh và các nơi khác.
Có thể nói đây là những chứng cớ cho thấy, « từ Giêsu » (xem
tựa đề chương hai nầy), Đức Giêsu đã không ngừng làm cho người ta chú tâm và
mãi còn làm cho ta chú tâm. Nay là lúc cần nhìn rõ hơn nữa điều hay nào, lợi
ích nào mà Ngài có thể luôn luôn mang lại cho chúng ta ngay trong thời buổi
nầy: như thế nào, tại sao và đến mức nào.
III
Giêsu
hay là Giêsu-Kitô ?
Qua toàn bộ chương trước đây, chúng ta đã thu thập được một nguồn tài
liệu phong phú; kỳ thực là chúng ta chỉ nhằm nêu lên một cách thiết yếu những
gì đã được người ta nói đến Đức Giêsu-Kitô qua lịch sử, từ thời các vị Tông
đồ đến thời đại chúng ta. Và vào phần cuối chương ấy, qua những gì chúng ta đã
ghi nhận được, chúng ta không thể kết thúc làm sao hơn là nêu lên thắc
mắc : vậy Đức Giêsu can hệ gì với chúng ta hôm nay. Bây giờ chúng
ta sẽ tập chú vào điểm đó.
Thắc
mắc về Đức Giêsu
và « tầm quan trọng của vấn đề »
Thắc mắc chủ yếu nêu lên về Đức Giêsu-Kitô có thể tóm kết thế nầy. Chữ « Giêsu »
không có gì khác hơn là một tên gọi của một người như bao nhiêu người khác ở
Israel : nó nói đến một vị tiên tri vùng Nazareth, được biết như là người
mà không ai có thể quên được !
« Kitô » ngược lại, là một
việc khác. Hẳn nhiên, người ta đã có thói quen (– và ngay từ nơi Tân Ước –) kết hợp chữ « khác » ấy với chữ
« Giêsu » đến độ thường không còn thấy có sự khác biệt nào giữa hai
chữ nầy. Hậu quả là: thành ngữ « Giêsu-Kitô » từng được cảm nhận như
một nhất thống trong đó hai yếu tố « Giêsu » và « Kitô »
kết hợp thành tương quan, nay lại không còn được phân biệt và được cân
nhắc nữa. Tình trạng đó mới đáng đặt thành vấn đề !
« Giêsu » và « Kitô »
Những Kitô-hữu * đầu tiên không
cảm nhận như vậy, và chúng ta ngày nay cũng đừng nên cảm nhận như vậy. Vì nếu
« Giêsu » (chỉ) là tên người,
thì « Kitô » lại là một
tước hiệu : tước hiệu mà những môn đệ đã đi theo Đức Giêsu tin
rằng phải áp dụng cho Ngài. Ông Giêsu ở Nazareth ấy, họ đã gọi là
« Đấng Kitô », họ đã nhìn
nhận, đã tuyên xưng là « Kitô » (xem Mt 1,16).
Như vậy « Kitô » muốn nói lên điều gì ? Câu trả lời đơn
giản : « Kitô » là một chữ Hy-Lạp dịch chữ « Thiên
Sai*[25] »,
nghĩa là « được Thiên Chúa gửi đến ». Nên đối với các môn đệ, nói đến « Giêsu- Kitô » hẳn nhiên
là nói đến Đức Giêsu, nhưng đồng thời cũng là nhìn nhận và tuyên dương rằng người
ấy là Đấng Thiên Sai. Họ đã xử sự như thế, không phải chỉ như một
người chứng của kẻ bàng quang, vô tình, nghĩa là chỉ biết lặp lại những điều
tai nghe mắt thấy về người đó. Nhưng sâu xa hơn, họ cũng nói lên ý nghĩa và
tầm quan trọng (- hay nói cách
khác là : lợi ích thiết thân -) mà họ cảm nhận về lời nói và hành vi của Đức Giêsu, kỳ cùng là
về cuộc sống và thân phận của Ngài, mang lại cho họ và cho thế giới.
Cùng với dân của họ, họ chờ đợi « Đấng Thiên
« Dọc
đường, Người hỏi các môn đệ : «Người ta nói Thầy là ai ? » Các ông đáp : « Họ bảo Thầy là ông
Gioan Tẩy giả, có kẻ thì bảo là ông Êlia, kẻ khác lại cho là một ngôn sứ nào
đó. » - Người lại hỏi các ông : « Còn anh em, anh em bảo Thầy là
ai ? » Ông Phêrô lại lên tiếng
trả lời : « Thầy là Đấng Kitô » (Mc 8,27-29)
Sai », Đấng
Kitô của Thiên Chúa, Đấng sẽ đến để mang lại cho họ thứ tha, giải thoát và ơn
cứu độ. Và khi nói lên danh hiệu Giêsu Kitô, thì có nghĩa là họ đã tuyên
dương rằng Đức Giêsu là Đấng Thiên Sai mà họ chờ đợi. Họ tuyên xưng rằng
Đức Giêsu đáp lại niềm trông đợi của họ, cho dẫu Ngài " chuyển dời "
và biến đổi niềm hy vọng đó ngay trong giây phút mà Ngài chuẩn ban.
Có liên quan gì đến chúng ta không?
Nay chúng ta thấy được tầm quan trọng thiết thân đối với các môn
đệ khi họ nói về Đức Giêsu như họ đã làm : khi họ gọi Ngài là Giêu-Kitô,
khi tuyên dương Đức Giêsu là Đấng Kitô.
Ngay từ lúc đầu họ theo Đức Giêsu vì họ tin Ngài có thể chính là Đấng mà
họ trông đợi : « Thầy có phải là Đấng phải đến hay là chúng tôi
phải đợi một vị khác ? » (Mt 11,3). Và người ta cũng có thể nhận ra
thêm được rằng, sau nầy, những gì họ có thể loan truyền về Ngài (– nghĩa
là : Ngài thật là Đấng Cứu Độ thế giới và Con riêng của Thiên Chúa -),
thì đó cũng là một sự giải thích nội dung tước hiệu
« Đức Kitô » mà họ đã từng cảm nhận về Ngài, một Đấng mà nguời ta
trông đợi.
Từ sự kiện đó, chúng ta có thể rút ra vài kết luận minh bạch hơn giúp
chúng ta tiếp tục suy nghĩ :
· vì Đức Giêsu được nêu lên thành vấn đề, nên nay cần phải làm sáng tỏ
những gì người ta có thể nói về Ngài một cách chắc chắn, trong khuôn khổ là một
nhân vật lịch sử như các vị khác.
· vì Đức Giêsu đó đã được gọi là Đấng Kitô ngay từ lúc ban đầu, thế
thì nay ta cũng tự hỏi có thể gọi như vậy không, và gọi như vậy thì có liên
quan gì đến chúng ta không.
· ... nhưng, vì tầm quan trọng mà
các môn đệ đầu tiên gọi Đức Giêsu là « Đấng Kitô », chúng ta cần tự
hỏi chính mình : Đức Giêsu có liên quan gì đến chúng ta
không ? Hoặc rõ hơn : Ngài có thể đáp ứng được ước mơ nào, hy vọng
nào trong chúng ta ?
Bây giờ thì đã rõ ràng :
thắc mắc « Giêsu hay là Giêsu-Kitô ? » làm tựa đề cho chương ba
nầy diễn tả đúng câu hỏi rốt ráo về Đức Giêsu-Kitô. « Giêsu ? »,
nghĩa là : chỉ như là con người Giêsu hay sao ?; hoặc « Giêsu-Kitô ? »,
nghĩa là : một Giêsu mà chính tôi cũng có thể nhìn nhận như là Đấng đáp
ứng được những nguyện vọng, những lời kêu cầu, và niềm hy vọng cưu mang cuộc
sống tôi hay không? Nói tóm, thắc mắc về Đức Giêsu gắn liền với câu hỏi
liên quan giữa Ngài và ý nghĩa đời tôi.
Chúng ta lần lượt đề cập đến vấn
đề nầy dưới hai bình diện đó.
Giêsu
là ai ?
Chúng ta bắt đầu bằng câu hỏi về Đức Giêsu : Ngày nay chúng ta biết
được được điều gì chắc chắn về cuộc đời của Ngài trong lịch sử vào thế
kỷ đầu của công nguyên ?
Nhiều vấn đề
Độc giả hẳn có cảm tưởng là chúng ta đang quay lại một điểm đã từng nói
trước đây : không phải chúng ta đã từng trả lời câu hỏi nầy rồi hay sao?
Đặc biệt là khi nhắc đến các chứng tá của Tân Ước dưới tựa đề " là một con
người " (xem chương II) ? Ở đây kỳ
thực không phải là lặp lại nhưng là muốn đào sâu.
Lần trước chúng ta nói chi tiết về việc các vị viết Tân Ước giúp chúng
ta biết về con người Giêsu ; chúng ta nói rõ là chỉ ghi nhận những
gì mà « bất cứ ai đọc Tân Ước » cũng hiểu như thế. Nhờ vậy chúng ta
có thể nhận ra rằng những lối trình bày một Đức Giêsu chỉ như « Thiên
Chúa » mà thôi, một lối hiểu về Đức Giêsu mất hết nét nhân tính đậm đà nơi
Ngài, là không chuẩn xác ; những người Kitô-hữu nguyên thủy không bao giờ
có lối suy nghĩ như thế về Đức Giêsu-Kitô : họ luôn nhấn mạnh đến nhân
tính của Ngài. Chừng đó cũng đã là một điểm khả quan rồi. Nhưng chỉ dừng
lại đây, thì e rằng như ngầm hiểu là điều gì Tân Ước nói về Đức Giêsu đều ăn
khớp với sự thật lịch sử của Ngài trong
mọi mặt. Kỳ thực ở điểm nầy lại có nhiều vấn đề đặt ra, ít nhất là khởi từ thế kỷ XIX.
Có hai trào lưu vào thế kỷ XIX
Chúng ta không cần phải nói đến những chủ trương cho rằng Đức Giêsu chỉ
là một huyền thoại*, một chuyện do trí tưởng tượng của những con người đặc biệt
có nhiều tài năng sáng tác, đầy thiện chí quảng đại nhưng khá ngây ngô bịa đặt
ra mà thôi. Nhưng bên cạnh chủ trương đó lại còn có những quan điểm khác mà
chúng ta không thể không lưu ý.
Khai
sinh khoa học lịch sử
Dọc dài suốt thế kỷ XIX một bộ môn khoa học vể lịch sử được xây
dựng lần hồi. Nhờ các công trình khảo cổ, nhờ nghiên cứu sâu sát và đối chiếu
các tài liệu đào bới truy tìm được v.v., ngưới ta có thể đi đến việc
« trực tiếp » có một ý niệm về môi trường và những điều kiện đa biệt
trong đó Đức Giêsu lịch sử đã từng sống. Chữ « trực tiếp » nêu lên
đây muốn nói rằng : không buộc phải đóng khung trong nội vi Tân Ước, như
bấy lâu thường làm. Đúng như dự đoán, lúc bấy giờ một số nhà nghiên cứu say sưa
với kiến thức mới mẻ của mình đã cho rằng nay người ta có thể biết «sự thật» về
Đức Giêsu; người ta có thể thực sự thiết định lại lý lịch* của Ngài, một lý
lịch mà trước đây vì nhu cầu phải tôn vinh tôn giáo của mình các tín đồ đã tô
son trét phấn trong các bản văn Tân Ước.
Nhưng thay vì tìm lại được con người
« Giêsu thật sự » như người ta từng chủ trương, thì ngược lại,
người ta đã đi đến một loạt hình ảnh nào đó về Đức Giêsu! Có người tìm
thấy nơi Ngài như nhân vật náo hoạt chính trị và là nhà cách mạng; người khác
lại khai phá ra nhà khổ hạnh và tiên tri cải cách; có nhóm nữa thì thấy đúng là
một khuôn mặt tôn giáo dấn thân hết mình cho một chủ trương nhất thần tuyệt đối;
bên nầy thì cho Ngài là một biệt tài về xảo ngôn và lèo lái quần chúng; phe
khác lại khám phá ra được một nhân vật lãng mạn rất thần thông, biết trước về
số phận mình phải đi đến cảnh chịu bắt bớ
v.v.
Không những kết quả hoàn toàn đi ngược lại điều người ta chủ trương, mà
người ta kỳ cùng nhận ra rằng tình trạng đa biệt của các chân dung đó phản ảnh
chính những khuôn mặt khác nhau của các nhà nghiên cứu. Mỗi người phóng họa
trên Đức Giêsu những tiêu chuẩn và những sở thích của mình: người tôn vinh tiêu
chuẩn chính trị, cưu mang ước mơ chính trị thì thấy một Giêsu đậm nét chính
trị; người đi tìm đạo đức thì thấy nhà đạo đức Giêsu; và cứ thế mà nhân mãi lên...
Đây đúng là bằng chứng hùng hồn cho thấy vấn đề sở thích đóng vai trò quyết
định trong mối quan hệ với Giêsu (= đánh giá Đức Giêsu). Đây cũng là bằng
chứng hùng hồn buộc chúng ta phải lưu ý về phương cách mà sở thích đó có thể
chi phối hay đẩy đưa!
Trào
lưu thứ hai
Những kết quả hỗn tạp như thế đã khiến một thế hệ nghiên cứu thứ hai đưa
ra một kết luận hoàn toàn trái ngược. Họ chủ trương phải có lập trường dứt
khoát và nên đồng thuận trước với nhau rằng không thể nào biết được chắc chắn
Đức Giêsu là ai. Không những bởi vì ngày nay chúng ta không cách gì tránh khỏi
những chi phối do ước vọng chủ quan của mình trong nỗ lực tìm kiếm sự thật về
Đức Giêsu, mà kỳ thực từ đầu, sự kiện như thế đã xảy ra nơi những chứng nhân
đầu tiên về Ngài. Các bản Phúc Ââm, nói
cho đúng, chắc cũng không trình bày trung thực những gì liên quan đến Đức
Giêsu. Những gì các sách đó kể lại, đúng hơn, có thể nói đó chỉ là lối hiểu của
những người trước đó đã từng đi theo Ngài, rồi sau nầy nhớ lại. Những tâm tư
riêng của họ chi phối hình ảnh mà họ hình dung và mô phỏng về Đức Giêsu. Nên
không bao giờ có thể tiếp cận chính Đức Giêsu được: e rằng đã đến lúc cần phải
hạ huyệt Đức Giêsu lịch sử vì Ngài đã khuất bóng từ lâu, không thể nào chúng ta
tìm lại chân dung lịch sử chính xác của Ngài được cả !
Đức Giêsu lịch sử, hôm nay
Từ hậu cảnh vừa trình bày, và chính trong bối cảnh như thế mà vấn đề
chúng ta đang ưu tư : « Đức Giêsu đúng ra là ai? » lại càng quan
trọng và không thể không đặt ra. Ta có
thể nói được điều gì chắc chắn về cuộc đời Ngài, về điều Ngài nói và
Ngài sống, Ngài làm và Ngài phải chịu ? Nếu ta không thể không biết đến
việc các vị viết Tân Ước đã suy đi xét lại và trình bày Đức Giêsu theo kinh
nghiệm riêng và thao thức riêng của họ, thì câu hỏi đặt ra là đến mức độ nào ta
có thể tin được vào điều họ kể lại cho chúng ta về Ngài ?
Cám ơn Chúa và cám ơn các nhà nghiên cứu trong thế hệ thứ ba,
chúng ta nay có được điều kiện khả quan hơn để trả lời. Khoa sử học còn tiến
triển, nếu biết dựa vào Tân Ước với một phương pháp phê bình đứng đắn, hẳn sẽ
nêu lên được những nội dung chân xác.
Hai nhận xét sau đây làm ta suy nghĩ. Một mặt một số những dữ kiện nơi
Tân Ước liên quan đến Đức Giêsu không thể nào bịa ra được trong bối cảnh của
những cộng đoàn sau ngày Đức Giêsu đã khuất. Mặt khác, những dữ kiện nầy cũng không giải
thích được trong bối cảnh xã hội thời
mà chính Đức Giêsu đã sống. Nên không thể nào kết luận khác hơn được ngoài
việc phải nhận chân rằng các dữ kiện nầy phát sinh từ chính Đức Giêsu. Khi đọc
các bản văn Phúc Âm dưới lối kiểm thảo của hai nhận xét dẫn lộ nầy, người ta
thấy các kết quả thu thập được rất phong phú, có thể dựa vào chúng để trình bày
khuôn mặt Đức Giêsu lịch sử với những đường nét rõ ràng, chính xác.
Thới
điểm và môi trường sống của con người Giêsu
Nếu khó thiết định chính xác ngày giờ sinh của Đức Giêsu, thì người ta
không thể lầm khi nói rằng Ngài bắt đầu công khai thực hiện sứ vụ rao giảng vào
năm 28-29. Còn về thời điểm Ngài mất, thì cũng xem như chính xác :
người ta có thể ghi là ngày thứ sáu mồng 07 tháng 04 năm 30, đó là dữ kiện mà
thiên văn học có thể xác định dựa và những chỉ dẫn của Phúc Âm Gioan. Người ta
cũng có thể nghĩ rằng tác giả nầy còn cho chúng ta thời điểm của Bữa Tiệc-ly*,
bữa ăn cuối của Đức Giêsu; tuy vậy, điểm cuối nầy còn chưa chắc lắm vì Marcô và
Luca gợi lên một thời điểm khác hơn.
Đó là phần thiết yếu về thời điểm. Nhưng còn vấn đề nầy quan trọng hơn:
người ta biết rằng vào thế kỷ thứ nhất, ở trên phần đất Palestine có nhiều nhóm
xã hội-chính trị và nhiều trào lưu tôn giáo; thế thì Đức Giêsu thuộc vào nhóm
nào. Đã rõ là Ngài thuộc trào lưu
thanh tẩy * [26] vì
Ngài đã thân hành đến để Gioan làm phép rửa ở bờ sông Gioc-đăng (Mc 1,9). Tuy
thế, Ngài cũng có đi lại với những người trong cộng đồng Do-Thái giáo đương
thời : những người Pharisêu* Những người nầy rất nghiêm nhặt. Họ
làm thành một khối rất « thuần khiết », tẳn mẳn về những vấn đề tinh
thuần đạo đức và lễ nghi (xem một thí dụ nơi Mc 7,1-3). Phong trào của Gioan
tẩy-giả chủ trương khác với nhóm nầy, và muốn mở thật rộng cửa cứu độ. Vị nầy
loan truyền rằng bất cứ ai, chấp nhận quay trở lại đường ngay và chịu phép rửa
theo lời kêu mời của các tiên tri* rao truyền Phán-Quyết của Thiên Chúa, thì
đều đến được với Thiên Chúa. Đức Giêsu rõ ràng tham gia vào trào lưu nầy :
Ngài cũng làm như thế khi mời gọi tất cả những người « được xem là
không thánh thiện » mà phái Pharisêu* loại ra. Ngài đã không nói là mình
đến « kêu mời không phải những người ngay chính mà là những người tội
lỗi » (Mc 2,17) hay sao ?
« Các
ông nghiên cứu Kinh Thánh vì nghĩ rằng trong đó các ông sẽ tìm được sự sống đời
đời ; mà chính Kinh Thánh lại làm
chứng về tôi ; và các ông không muốn đến cùng tôi để được sự sống » (Ga 5,39-40)
Và khi Ngài khuất, Giáo Hội khởi thủy quyết tâm hướng về dân ngoại, đó
chính là vì họ đã nối dài đường lối nầy của Ngài.
Tuy ban đầu Đức Giêsu từng làm phép rửa như Gioan tẩy-giả đã làm (Gioan
3,23-26), nhưng Ngài đã sớm dừng lại và rút ra khỏi phong trào nầy. Theo Ngài,
phép rửa trên sông Gioc-đăng không còn là con đường cứu độ mà Thiên Chúa tặng
ban. Từ nay, con đường ấy sẽ không gì khác hơn là chính lời nói và hành vi của
Ngài, kỳ cùng nghĩa là chính con người Ngài.... Nhưng ở đây ta qua một bình
diện khác.
Cung
cách và số phận của vị tiên tri Giêsu
-
Điểm nổi bật nơi Giêsu. Nếu cách xử sự và thái độ tổng quát của Ngài
phản ảnh cung cách một tiên tri*, thì Ngài lại không tự giới thiệu mình
giống hoàn toàn với các vị đi trước, nghĩa là các tiên tri được Cựu Ước ghi
lại. Các tiên tri ấy loan báo « Lời Đức Giavê », Đức Giêsu lại nói
thế nầy : « Đã có lời nói (cho anh em) : « (... tiếp theo
lời trích dẫn Luật của Thiên Chúa). » « Còn Tôi,
Tôi nói với anh em : (...). »
(Chẳng hạn xem Mt 5,20 tiếp theo). Ở đây mọi sự cho thấy như là Đức Giêsu xác
minh chính lời của Ngài có thế giá, có quyền năng, điều mà từ trước đến nay vốn là thẩm quyền
riêng của Lời duy nhất và tối thượng của Thiên Chúa.
Điểm nầy là nét đặc trưng của Đức Giêsu lịch sử. Đức Giêsu đã chứng thực
quyền uy nầy, đã gây nhiều đợt ngạc nhiên và thắc mắc về « vị tiên tri
Nazareth » như chúng ta đã có dịp nhắc đến.
«
Và Ngài nói với họ : « Nầy là máu ta, máu Giao Ước sẽ đổ ra cho nhiều người. » (Mc 14,24)
Nhưng quyền năng đó cũng đã gây tị hiềm nơi giới lãnh đạo tôn giáo dân
Do-Thái (sau đó là nhà cầm quyền Roma). Và Đức Giêsu sớm thấy rằng sứ điệp và
cách xử sự của Ngài sẽ dẫn đến việc
người ta có thể kết án Ngài. Ngài đọc được số phận Ngài nơi số phận của
các tiên tri-tử đạo đi trước. Điểm mới nầy trực tiếp gắn liền với cách sống của
Đức Giêsu và liên quan đến việc « minh định quyền năng » qua chính
cuộc sống ấy; và điểm ấy cũng là nét đặc trưng của Đức Giêsu.
- Nét đặc trưng thứ hai :
những gì Đức Giêsu nói và làm, không bao giờ Ngài hành động cho riêng Ngài. Toàn
bộ cuộc đời Ngài đều xuyên suốt bởi một động lực, một thái độ song đôi. Một mặt
Ngài nói, hành động và sống cho con người và để cứu độ họ. Ngài đã không đến để
được hầu hạ, nhưng để phục vụ (Mc 10,45). Ngài dùng lời nói để chỉ con đường
sống (Lc 10,28). Và nếu Ngài bị mất mạng sống mình, thì đừng lầm tưởng (bị) như
thế ; kỳ thực chính Ngài tự hiến dâng (đó là ý nghĩa sâu xa của Tiệc-ly*), và
Ngài đã hiến dâng cho " vô số dân chúng "(Mc 14,24). Mặt khác, việc
làm và cuộc sống cho kẻ khác ấy, Ngài đã chu toàn nhân danh Đấng Khác mà
Ngài gọi là Cha của Ngài. Chính Người Cha nầy đã gửi Ngài đến (Mc 9,37) và
Ngài chỉ muốn thực hiện ý Cha Ngài, dẫu có thế nào đi nữa (Mc 14,36). Ngoài ra
Ngài có suộc sống thân mật tuyệt đối duy nhất với Cha Ngài : Đó là nội
dung được diễn tả nơi chữ « Abba,
Cha » (nghĩa là : ba), mà chỉ có một mình Đức Giêsu
« Và
Ngài nói : « Abba, Cha ơi ! Cha có thể làm được mọi sự, xin tha
cho con khỏi uống chén nầy. Nhưng xin đừng làm theo ý con, mà xin theo ý
Cha ! » (Mc 14,36)
dùng để nói với
Chúa Cha. Như vậy đây là một dữ kiện mới liên quan đến thân thế thật sự của Đức
Giêsu trong lịch sử : trước hết là đối với Đức Giêsu, đời Ngài không có ý
nghĩa gì ngoài tương quan kỳ diệu của Ngài với Đấng mà Ngài gọi là Cha Ngài.
- Cuối cùng, Đức Giêsu còn thể
hiện mối tương giao với con người và với Cha Ngài theo hai điểm qui chiếu rất
đặc trưng. Trước hết là điểm qui chiếu thời gian: Đức Giêsu luôn hướng
các môn đệ Ngài về điều sắp xảy ra cho Ngài, về một tương lai lúc đầu còn bất định, nhưng
sẽ sớm tỏ rõ dần. Tầm quan trọng của những gì Ngài nói, Ngài làm và hơn nữa là
chính con người Ngài thật sự chỉ khai lộ nơi cái chết và những biến cố kỳ diệu
bao quanh cái chết nầy. Đức Giêsu đã nói trước điều nầy cho các môn đệ Ngài và
cũng nói rõ là họ không thể hiểu được. Nói tóm, Đức Giêsu lịch sử đã tiên báo
rõ ràng rằng « chìa khóa » của đời Ngài sẽ nằm nơi phần kết thúc.
Trong bối cảnh đó có thêm điểm qui chiếu thứ hai: Đức Giêsu loan báo một
Đấng Khác sẽ đến. Một Đấng Khác kỳ nhiệm sẽ đến sau Ngài và tiếp tục
công việc của Ngài trong họ. Một Đấng
Khác không phải là Cha mà Đức Giêsu thường hay nói đến. Một Đấng Khác mà Đức
Giêsu gọi là Thần (Thánh) (Mc 13,11).
"
Và Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở
với anh em luôn mãi, đó là Thần sự thật"
(Gioan 14,16)
Đó là những nét đại khái mà ngày nay người ta có thể nói về «Đức Giêsu lịch sử ». Ở đây hẳn
rõ nét hơn
những gì
đã trình bày về Ngài ở phần trên
(xem chương II) qua tựa đề " Là một
con người ". Nhưng cần nói thêm, như Ngài đã thấy trước lúc còn sống, là
Ngài sẽ bị ruồng bỏ và bị lên án tử hình, vì tất cả những điểm đặc trưng nầy
sớm làm cho người đương thời « không chịu nổi » Ngài, - Ngài rầy rà
quá- . Sau phiên xử « lấy lệ » của
tòa án Do-Thái, Ngài bị điệu qua tòa án của vị tổng trấn địa phương của Rôma
tên là Philatô; Ngài bị lên án tử hình và bị
treo lên thập giá ở một nơi gọi là Golgotha; đã chết, hầu như bị bỏ rơi
một mình trơ trọi.
Tại
sao lại có những Kitô-hữu ?
Điều làm ta ngạc nhiên là tất cả sự việc đã không dừng lại đó. Tại sao sự việc ấy lại tiếp tục, và làm thế
nào mà có những Kitô-hữu ? – Chúng ta gặp lại câu hỏi từ đầu chương
nầy : những người ngày nay tự nhận là theo Đức Giêsu, Đấng mà chúng ta vừa
lược qua chân dung lịch sử đó, vì lợi ích gì họ theo Ngài? Trả lời
câu hỏi nầy sẽ giúp chúng ta tiến xa hơn nữa trong việc khám phá ra Ngài thật
sự là ai.
Một dữ kiện không thể chối cải : có những Kitô- hữu
Sự kiện hết sức hiển nhiên là có những Kitô-hữu. Chúng ta sẽ lấy điểm
nầy làm điểm khởi phát; và để bắt đầu chúng ta cần vượt qua một số những khó
khăn liên quan đến chủ đề đó. Trước hết: Bên trong cộng đồng những người tự
nhận là Kitô-hữu, đã có và chắc sẽ mãi còn có những người bất xứng và những
người cố chấp thiển cận. Chúng ta hãy nhìn nhận sự kiện đó, không cần phải che
giấu làm gì; tuy nhiên cũng nên lưu ý rằng không thể vì thế mà vội đánh giá
Kitô-giáo là xấu xa: khi lấy những người bất xứng nhất để qui chiếu và đánh
giá, làm như thế không phải bất công lắm hay sao ? Và hẳn nhiên cũng có những
Kitô-hữu « giữ đạo thói quen » hoặc « xưa bày nay làm». Nhưng
trong một thế giới mà những tập tục ‘‘ xưa bày nay làm’’ tự chúng càng ngày càng ít ảnh hưởng đến dư luận và
cách sống của con người, thì tại sao sự thể đó lại không xảy ra trong địa hạt
đức tin ?
Kỳ cùng, điều không thể chối cải là: trên thế giới có một số người
«Kitô-hữu » đông đảo, cũng tự do và thông minh như bao nhiêu người khác,
cũng có khả năng trong các chức năng và phận vụ xã hội, cũng « bình
thường » và sáng suốt như mọi người; họ là Kitô-hữu vì họ muốn như thế, vì
họ đã chọn con đường nầy và muốn tiếp tục đi trên con đường nầy.
Có những hệ thống ý hệ-chính trị điều hành được nhờ vận dụng sự ép buộc
và bộ máy kiểm soát của công an; giáo quyền không có một sứ mệnh, một bộ máy
lãnh đạo, một lối hiệu năng công tác như thế. Có những giáo phái dựa vào sự sợ
hãi những quyền năng vô hình và áp đặt một mạng lưới áp lực xã hội chằng chịt;
Kitô-giáo ngày nay không phải vậy. Người ta càng ít nói đến Kitô-hữu như những
người bị giáo quyền khống chế hoặc bị một truyền thống cứng nhắc bóp nghẹt, hơn
là nhắc đến một số người Kitô-hữu làm đội ngũ tiên phong trong vô số những nỗ
lực canh tân và giải phóng (hãy xem những gì xảy ra trong các nước thuộc đệ tam
thế giới, chẳng hạn). Hơn nữa, nhiều người Kitô-hữu nghĩ rằng nếu sự thể đã
không xảy ra được như thế, thì họ cũng đã rút lui từ lâu rồi...
Những Kitô-hữu nầy không bị tha hóa, buồn rầu..., chả có gì là mặc cảm
hổ ngươi hay khốn khổ cả! Họ hiên ngang là Kitô-hữu. Chúng ta sẽ nói đến những
Kitô-hữu đó ở đây. Và nói như thế nầy. Không ai bị buộc phải đặt vấn đề
Kitô-giáo cả. Nhưng bất kỳ ai muốn biết hoặc muốn đặt câu hỏi về Kitô-giáo, thì
không thể nào phủ nhận sự kiện nầy: ngày nay luôn có những Kitô-hữu, và họ là
Kitô-hữu bởi vì họ đã chọn con đường nầy
và hoan hỉ tiếp tục muốn làm người Kitô-hữu.
Đó là điều mà đoạn văn nầy gọi là « một dữ kiện không thể chối
cải ». Chuyện đó xảy ra đúng như thế. Không thể khoát tay nói bừa rằng đây
là tình trạng vong-thân, một loại thuốc phiện. Và phải lấy từ sự kiện nầy để
nói một cách nghiêm túc về Kitô-giáo và đức tin Kitô-giáo. Để tiếp cận
Kitô-giáo, không thể dùng lối sưu tra có tính cách lý thuyết tổng quát hoặc
nhận định trừu tượng như là những biên khảo rắc rối rườm rà và những ý thức hệ.
Nếu đã có những ý niệm, những giáo thuyết và những chuỗi tâm-chứng được thực
hiện trong khuôn khổ Kitô-giáo, thì đó là những biểu lộ của những cuộc sống cụ
thể và vô số những kinh nghiệm cá nhân qua hai mươi thế kỷ, nơi những mẫu cộng
đồng con người hết sức đa biệt, ở cấp địa phương cũng như trên bình diện hầu
như toàn cầu.
Sự việc xảy ra thế nào ?
Nếu chúng ta đồng ý nhìn sự việc
như thế, thì câu hỏi sẽ đặt ra là tại sao có chuyện đó xảy ra. Để trả
lời thắc mắc nầy, chúng ta lần lượt đi vào hai cấp độ.
Một
câu trả lời ở hai cấp độ khác nhau
Cấp độ đầu : Đã có Kitô-hữu và còn có Kitô-hữu hôm nay, trước hết
vì đã có Đức Giêsu. Vì Ngài đã mời gọi người ta theo Ngài; sau đó có những kẻ
đã theo Ngài, đã quảng bá sứ điệp của Ngài và làm tăng số Người trong nhóm môn
đệ; rồi con số từ đó lại tăng lên gấp bội xuyên qua thời gian và không gian.
Đức Giêsu đúng là nguồn gốc, là qui chiếu, là chuẩn mực cho «con người gọi là
Kitô-hữu »[27]. Ta
cũng biết không phải chỉ có những người Kitô hữu tin Thiên Chúa và chủ trương
một lối yêu thương nào đó đối với kẻ khác. Nhưng Kitô-hữu khác với những người
nầy ở hai điểm: nơi Kitô-hữu, tin Thiên Chúa và yêu kẻ khác (và tất cả những gì
liên quan) đều trực tiếp do Đức Giêsu dạy phải làm và được thiết định
trong Ngài[28]. Chỉ cần xem vị thế Đức Giêsu trong bản kinh
Tin Kính thì rõ. Ngoài ra, Kitô-hữu trước hết được minh xác trong tương quan
với Đức Giêsu-Kitô ngay từ nơi tên gọi của mình. Tên gọi « Kitô-hữu »
nầy đã được dùng lần đầu tiên ở Antiokia, ngay từ thời Thánh Phaolô (CV
11,26) ; tên gọi nầy chỉ định họ là những ngưởi « của Đức
Kitô », như chính bản Phúc Aâm thứ hai đã viết (Mc 9,41) :
« Anh em thuộc về Đức Kitô ».
Nhưng có một cấp độ thứ hai : nếu quá khứ đã có những Kitô-hữu và
nếu vẫn luôn có Kitô-hữu, thì cũng vì
những người được Đức Giêsu mời gọi đã thực sự chấp nhận bước đi theo Ngài. Và
lời kêu mời nầy mãi luôn vang vọng, vì có những ngưởi theo Ngài, đến phiên họ,
tiếp tục quảng bá không ngừng. Nhưng tại sao sự việc đó lại xảy ra? Lý do rất rõ ràng. Trước đây những môn
đệ* đầu tiên đã từng theo Đức Giêsu vì
họ nghĩ rằng Ngài ban cho họ " những lời hằng sống " (Gioan 6, 68
- xem phần trên) ; thì nay Kitô-hữu gắn
bó với Đức Giêsu cũng vì họ nghĩ rằng
Ngài tha thiết đến họ và " nói " với họ, bởi vì Ngài mang lại cho họ
điều mà họ nhìn nhận như là ý nghĩa cuộc đời họ.
Những
nhân chứng
Ở đây, chúng ta hẳn có vô số những chứng nhân. Nhưng chỉ cần nêu lên một
vài nhân chứng được xem là tiêu biểu.
Có thể bắt đầu bằng chính chứng nhân của Thánh Phaolô :
Đối với tôi, sống là Đức Kitô (Ph 1,21).
Và tiếp đó qua các thế kỷ:
Thánh Polycarpe (Thế kỷ thứ II), đã lên tiếng trước khi chịu tử đạo :
Tôi đã phụng thờ Ngài trong 86 năm và Ngài không hề làm hại gì đến tôi.
Thế thì tại sao tôi có thể nhục mạ Đức Vua của tôi, Đấng đã cứu độ tôi ?
Thánh Phanxicô Assisi cầu nguyện Đức Kitô ở thánh đường Thánh Đamianô:
Lạy Chúa cao quang, xin đến soi sáng cảnh tăm tối của tâm hồn con; xin
ban cho con một đức tin chân thực, một lòng trông cậy vững bền, một lòng mến
yêu toàn hảo; xin Chúa cho con cảm nhận và hiểu biết ; để con có thể thực
thi thánh ý Chúa, là thánh ý không bao giờ làm con lầm lạc. Amen
Luthêrô *:
Chỉ có một niềm tin độc nhất và duy nhất trong tâm hồn tôi, đó là tin
vào Chúa Kitô. Tất cả suy tư thần học của tôi phát sinh từ đức tin nầy;
tôi cảm nhận và xét xem ngày đêm xuyên qua đức tin và sáng tác trong đức tin
ấy ; – nhưng từ sự khôn ngoan cao cả, bao la và sâu thẳm đó, tôi vẫn không
biết gì hơn ngoài một vài mảnh vụn chân lý mong manh, nghèo nàn.
Có Đức Kitô là có tất cả.
Nếu còn Chúa Kitô, mọi cái vẫn còn và có thể tìm thấy (...)
Và những người trong thời đại chúng ta,
D. Bonhoeffer:
Nếu trái đất dã xứng đáng mang con người Giêsu-Kitô, nếu một người như
Đức Giêsu đã có thể cư ngụ ở đấy, thì cuộc đời
chúng ta đáng để sống. Nếu Đức Giêsu đã không đến sống ở đây, thì mặc dù
có tất cả những ai mà chúng ta biết, chúng ta kính thương, thì cuộc đời chúng
ta vẫn vô nghĩa.
Karl Rahner:
Có thể yêu mến Đức Giêsu bất cứ ở đâu và bất cứ thời nào (...). Người ta
đọc Kinh Thánh y như hai người tình đang nhìn nhau và sống chung với nhau trong
cuộc sống hằng ngày (...).Người ta thực sự nghe Ngài nói với mình một điều gì
đó, và đó là sự sống, hơi thở của
mình ; và nếu không có Ngài ở đấy thì mình không là gì hết (...). Trong
mối tình người ta ấp ủ hướng về Ngài, Đức Giêsu trở thành Đấng Tuyệt đối cụ
thể.
Một bài ca của những người KITÔ-HỮU DA ĐEN Ở BẮC-MỸ :
Ai đã tìm kiếm tôi khi tôi lưu lạc? Ai giúp tôi đang nặng gánh giữa cuộc
đời ? Ai dẫn lối tôi đi về nẻo công chính, ai đặt tôi trên nền nhà vững
chãi ? Tôi biết đó là Đức Giêsu ; tôi biết đó là Chúa tôi.
Một giám mục người Ma-li vừa mới mừng lễ ngân khánh linh mục.
Tôi mãi chọn Đức Giêsu-Kitô, như một tình yêu trong tâm hồn tôi, một
niềm hy vọng trước mắt tôi, một con đường và một ngọn đèn chiếu sáng trên mọi
nẻo đường mà ước vọng rao truyền Phúc Âm và tình huynh đệ còn dẫn bước tôi đi,
nhân Danh Ngài.
Qua tất cả các nhân chứng ấy, Đức
Giêsu-Kitô là nguồn sống, ánh sáng và sức mạnh cuộc đời như vị giám mục người
Phi-Châu mà chúng ta vừa nhắc đến, điều đó không lạ lùng hay sao ? Nhưng
chúng ta cũng có thể lấy lại lời Phúc Âm thánh Gioan : Đức Giêsu là Đường và là Sự Thật của Đời Sống. Nói
cách khác : tất cả những người được gọi là « Kitô-hữu » nầy kinh
nghiệm rằng đời họ có một ý nghĩa, tìm được ý nghĩa trọn vẹn, khi họ
quyết tâm sống theo Đức Giêsu, bước theo vết chân Ngài, đi theo Ngài. Đối
với họ, đó là ý nghĩa đầu tiên khi nói đến việc thuộc về Đức Giêsu-Kitô, tin
vào Đức Giêsu-Kitô.
Nhưng vẫn còn cần phải đi xa hơn
nữa...
« Tin
Đức Giêsu-Kitô »
Một lối nói như thế nghĩa là gì ?
- Tin ai là phó thác vào họ
không hậu ý, không giới hạn. Khi nói « tôi tin bạn », là nói :
chắc chắn rằng tôi có thể dựa vào bạn và bạn sẽ không bỏ tôi; tôi không hoài
nghi gì về việc bạn sẽ luôn ở bên cạnh tôi và tôi có thể luôn trông chờ vào
bạn. - Đó đúng là điều mà Kitô-hữu nới với Đức Giêsu và nói về Đức Giêsu.
- Mỗi người mỗi cách, nhưng mọi người đều tìm cái gì đó hay ai
đó có thể soi sáng, dẫn lối họ trong cuộc sống. Một số người tin rằng họ sẽ
không thất vọng, những thắc mắc của họ sẽ có câu trả lời. – Những ai tin Đức
Giêsu thì nghĩ rằng họ tìm được tất cả những điều đó trong lời dạy, gương lành
và đời sống của Đức Giêsu.
- Một số người lại còn đi đến việc hy vọng « vào đời sau », hy
vọng vượt qua được tất cả những gì làm trở ngại cho việc hoàn thành viên mãn
cuộc đời họ, kể cả sự chết. Họ tuyên xưng niềm hy vọng vào một sự cứu độ*[29],
cứu thoát khỏi điều ác, mọi điều ác.
– Khi Kitô-hữu nói rằng họ tin Đức Giêsu-Kitô, thì thực sự họ xác quyết
rằng Ngài có thể mang lại tất cả những gì họ chờ mong; nhưng hơn thế nữa điều Ngài
đem lại vượt quá mọi điều họ hy vọng: « Điều mà mắt con người chưa từng
thấy, tai chưa từng nghe, tâm tư họ chưa từng nghĩ đến », đó là những gì « Thiên Chúa đã dọn sẳn
cho những ai thương mến Ngài » (1 Cr 2,9) trong Đức Giêsu-Kitô.
- Cuối cùng, một số người ý thưc rằng không thể nói đến cứu độ khi không
có một Đấng Cứu Độ*, vì ơn cứu độ là điều mà mình không tự ban cho mình
được. Và trong ý nghĩa đó họ đã đi đến việc nói đến Thiên Chúa [30].
Vì nói cho cùng, còn cái gì khác để qui chiếu ngoài « Thực Thể » nầy,
Thực Thể toàn thiện, toàn năng mà cuộc sống con người và những vấn nạn cuộc đời
đang thắc mắc : Thực Thể ấy có hiện hữu không ? là Ai ? Thực Thể
mà những ai tin nhận nói rằng vừa hoàn toàn khác với tất cả những gì
chúng ta kinh nghiệm được, lại vừa gần gũi chúng ta, ần cần lo lắng cho
chúng ta ?
"
Đối với tôi, sống là Đức Kitô " (Ph
1,21)
– Đối với Kitô-hữu, tin Đức Giêsu-Kitô đúng là xác quyết rằng nhờ Ngài
và trong Ngài chính Thiên Chúa đã tỏ bày cho chúng ta khuôn mặt Ân Phúc*[31]của
Ngài, Thiên Chúa « tự thân đến gần chúng ta » (Mc 1,15), tự mạc khải
như một Thiên-Chúa-cho-chúng-ta, Thiên-Chúa-ở-với-chúng-ta
(Emmanuel - Mt 1,23). Như là Chúa của
con người.[32]
Một vấn nạn cam go
Đó là ý nghĩa Kitô-hữu xác minh về đức tin của mình vào Đức Giêsu-Kitô.
Đối với họ, Đức Giêsu là một vị « ở giữa », trung gian* [33]
mà Thiên Chúa dùng để đến với chúng ta và đem lại ý nghĩa cho đời chúng ta:
giúp chúng ta vượt qua mọi đe dọa, dẫn dắt cuộc đời con người đạt đến một cứu cánh viên mãn vượt lên trên mọi
ước vọng. Như vậy là tuyên xưng một sự liên kết chặt chẽ giữa « Đức
Giêsu » và « Thiên Chúa ».
Nhưng ở đây lại không thấy rõ đâu là đầu mối liên kết như thế.
Và một khó khăn nghiêm trọng lại dấy lên ở đây: Đức Giêsu đã
chết ! Cái chết của Đức Giêsu không gây
« Không
ai thấy Thiên Chúa bao giờ ; nhưng Con Một là Thiên Chúa và là Đấng hằng ở
nơi cung lòng Chúa Cha, chính Người đã tỏ bày cho chúng ta biết » (Ga 1,18)
một trở ngại
hiển nhiên cho việc nhìn nhận một mối liên hệ đặc biệt giữa Đức Giêsu và Thiên
Chúa hay sao ? Nếu Thiên Chúa là
Đấng Cứu Độ cho cuộc đời con người, thì làm sao sự kiện đó thể hiện được bởi
Đức Giêsu và trong Đức Giêsu ? Đức Giêsu ấy đã biết đến sự chết, và Đức Giêsu
đã chết hay sao?
Về điểm nầy, người ta như cố thử chống chế, và nói: Nhưng chính Đức
Giêsu đã không từng nói với các môn đệ Ngài là đợi đến lúc Ngài chết mới biết
được mầu nhiệm cái chết nầy hay sao? Và Ngài đã không từng xác quyết rằng sau
cái chết nầy Ngài sẽ gữi Thần của
Ngài đến hay sao ? Do đó phải chăng từ nơi « Thần của Đức Giêsu »
và trong Thần nầy, chứ không phải nhờ chính Đức Giêsu và trong chính Đức Giêsu,
mà Kitô-hữu cảm nghiệm Thiên Chúa của cuộc đời họ và sự cứu độ của họ ?
Chúng ta chắc chắn sẽ nói đến Thánh Thần trong phần sau. Nhưng có thể đưa ngay
ra đây hai nhận xét. Trước hết : với sự chống chế nầy, mối liên hệ giữa
Thánh Thần và Thiên Chúa cũng không giúp ta thấy được vấn đề một cách rõ hơn! Tiếp đó: ta cũng không hiểu bằng cách nào,
sau khi Ngài đã khuất, Đức Giêsu lại có thể gửi
Thánh Thần đến để tỏ bày Thiên
Chúa và làm cho Thiên Chúa hiện diện giữa chúng ta, nếu chính Ngài đã chứng
kiến mối liên hệ của mình với Thiên Chúa từng bị cái chết đặt thành vấn đề.
Tóm lại : có xét cách nào đi nữa thì sự chết của Đức Giêsu ở đây
thực sự là một lối phủ định khó vượt qua !
Ngài
được phục sinh
« Thật vậy... » nhưng
« Thật vậy... » ba ngày sau khi Đức
Giêsu chết, hai môn đệ trên đường đi Êmau đã từng nói như thế .
" Thật vậy, có mấy người đàn bà đã làm chúng tôi kinh ngạc. Các bà
ấy ra mộ hồi sáng sớm, không thấy xác Người đâu cả, về còn nói là đã thấy thiên
thần hiện ra bảo rằng Người vẫn sống. Vài người trong nhóm chúng tôi đã ra mộ,
và thấy sự việc y như các bà ấy nói ; còn chính Người thì họ không thấy » (Lc 24,23-23).
« Thật vậy... » Kitô-hữu hôm nay cũng có thể nói như thế,
chúng tôi không thể chối cải những gì « bừng dậy* », « dấy lên* », « hồi
sinh » trong cuộc sống chúng tôi
khi chúng tôi quyết tâm đi theo Đức Giêsu, tiếp nhận lời Ngài và tin tưởng vào
Ngài... Nhưng tất cả sự việc đó lại không minh chứng là Ngài đã vượt qua
sự chết và hằng sống! Kỳ cùng, e rằng cũng chỉ là sức mạnh của những lời giáo
huấn và gương sáng của Ngài đấy thôi ; ngày nay những điều đó vẫn có thể
còn gây hứng cảm trong chúng tôi, khi chúng tôi truy tìm để qui chiếu, nhưng
ai dám chắc rằng chúng thuộc một cảnh giới khác hơn, chứ không phải chỉ là hình
ảnh của một quá khứ chết tiệt mất rồi ? « Thật vậy... » Kitô-hữu ngày nay còn có thể nói thêm rằng :
tất cả những gì ngày nay chúng tôi biết được một cách chắc chắn về cuộc đời cụ
thể của Đức Giêsu lịch sử sẽ làm xuất hiện trước mắt chúng tôi một nhân vật có
một tầm vóc lạ thường, một Đấng đã từng gắn bó thân mật cũng hết sức lạ thường
với Thiên Chúa... Nhưng chừng ấy
cũng không đủ để bảo chứng cho chúng ta rằng cuộc sống lạ thường kia, một khi
đã đi vào cõi chết, có thể vượt thắng được cõi chết đó.
Ở đây cần phải hết sức minh bạch. Kitô hữu ngày nay có thể dựa vào hai
yếu tố mà chúng ta vừa nêu trên đây: một mặt là những gì họ có thể biết về Đức
Giêsu lịch sử, mặt khác là «hứng khởi*» dấy lên trong cuộc sống của họ, mà họ
có thể cảm nhận được khi qui chiếu về Đức Giêsu. Những sự kiện ấy thực sự có
thể giúp họ kiểm chứng tầm quan trọng và lợi ích mà Đức Giêsu chiếm giữ
trong đời họ; và hẳn nhiên là quan trọng và bổ ích. Nhưng chừng đó không đủ để làm cho họ tin
vào sự phục sinh của Đức Giêsu. Điều dẫn họ đến đức tin ấy còn là một dữ kiện
khác, mà ngoài điều ấy ra thì đức tin Kitô-giáo không bao giờ có được :
dữ kiện mới nầy là chứng tá của các vị Tông Đồ.
Chứng tá của các vị Tông Đồ
« Người là một ngôn sứ đầy uy thế trong việc làm cũng như lời nói
trước mặt Thiên Chúa và toàn dân (...) các thượng tế và thủ lãnh của chúng ta
đã nộp Người để Người bị án tử hình và đã đóng đinh người vào thập giá. Phần
chúng tôi, trước đây vẫn hy vọng rằng chính Người là Đấng sẽ cứu chuộc Israel ! » (Lc 24,19-21).
Chắc chắn các Tông Đồ chán nản ê chề sau khi Đức Giêsu qua đời. Nên điều
đáng ngạc nhiên là: không bao lâu sau cái chết nầy, chúng ta thấy họ bỗng nhiên
từ thinh lặng chuyển đến thái độ lên tiếng mạnh dạn, và từ tình trạng hoàn toàn
ủ dột nhảy qua một cảnh giới năng động đến độ lao mình dấn thân trên các nẻo
đường thế giới bất chấp nguy cơ tử đạo.
Và khi các vị cho biết lý do về sự
chuyển biến hoàn toàn khác thường của đời họ và của cả chính con người
họ, một chuyển biến mà họ là người đầu tiên phải ngạc nhiên, thì họ nói đến
những biến cố vượt lên sức mong chờ của họ; chúng ta gọi những biến cố đó là
« những lần hiện ra* ».
Phải hiểu các biến cố nầy như thế nào? Trong một số hoàn cảnh, các môn
đệ* Đức Giêsu đã kinh nghiệm về một « cái gì đó » không giải thích
được đến với họ, vượt ra ngoài sức mong chờ. Một cái gì đó mà họ không chủ
động, nhưng bổng nhiên « xảy đến » cho họ. Nhưng cái gì đó lại nhắc
nhở họ nhớ lại những lúc gặp gỡ mà họ đã từng biết đến khi cùng chung sống
trước đây với Đức Giêsu. Thật thế, tất cả những
« lần hiện ra* » đều có một đặc tính gặp gỡ như vậy.
Những cuộc gặp gỡ nầy là kinh nghiệm mắt thấy, tai nghe, ngay cả tay sờ
đụng ; nhưng ngược lại với mọi điều họ nghĩ và vượt lên mọi điều họ hy
vọng, những kinh nghiệm bất ngờ ấy lại dẫn đưa họ đến việc nhìn nhận rằng Đức
Giêsu đến với họ từ cõi chết - nói tóm
là họ nhận ra rằng Ngài đã được sống-lại*,
Ngài đã chỗi dậy* từ cõi chết.
Tuy nhiên các Tông Đồ còn nói rõ rằng những cuộc gặp gỡ đó lại có những
đặc tính chưa từng biết đến so với những cuộc gặp gỡ trong thời gian từng sống
với Ngài trước khi Ngài mất ở Núi Sọ: Ngay khi họ muốn đụng đến Đức Giêsu để
nắm lấy Ngài, ngay khi họ nhận ra được Ngài, thì Ngài tránh đi, Ngài
« biến mất trước mắt họ». Như là Ngài muốn xin họ hiểu rằng Ngài lại đến
giữa họ và luôn ở với họ, – nhưng từ nay- bằng một cách khác. Và đó là điều mà
họ đã làm chứng : « Anh em hãy đi ; hãy làm cho mọi dân tộc
thành môn đệ (...). Và Thầy, Thầy sẽ ở luôn luôn với anh em cho đến ngày
tận thế » (Mt 28,20).
Còn chúng ta, hôm nay
Vì các môn đệ đầu tiên đã sống các kinh nghiệm nầy một cách hoàn toàn
bất ngờ, một kinh nghiệm được chúng ta gọi là hiện ra*, nên họ đã quyết tâm tin
và loan truyền Đức Giêsu phục sinh, một biến cố ngoài sức tưởng tượng. Nhưng về
phần chúng ta, chúng ta lại không có được những kinh nghiệm ấy. Phải nhìn nhận
sự kiện nầy : chỉ khi chúng ta đồng ý đón nhận và suy gẫm kỹ lưỡng chứng
tá của các Tông Đồ*, chúng ta mới có cái gì đó để có thể tin vào sự phục sinh
của Đức Kitô. Trong ý nghĩa như thế, các Tông Đồ đúng là những " cột trụ
" của đức tin chúng ta (Gl 2,9).
Nhưng cần nói ngay rằng chúng ta không phải vì thế mà tin một cách nhẹ dạ.
Trước hết vì chứng tá các Tông Đồ không phải thiếu bảo chứng: vì có
" cái gì đó " cho thấy rằng với tâm thức của họ, họ khó có thể bịa
đặt ra; và cũng vì có cái gì đó mà họ đã dấn thân ngay cả đến mức tử đạo. Nhưng
còn hai lý do khác nữa có thể củng cố hành trình đức tin chúng ta. Trước hết là
nhờ vào khoa học lịch sử, những gì chúng ta nay biết được về tính cách phi
thường nơi nhân vật Giêsu và mối liên hệ thân mật của Ngài với Thiên Chúa, có
thể dễ thúc đẩy chúng ta tin
« Ngay lúc
ấy, họ ra đi và trở về Giêrusalem. Họ gặp Nhóm Mười Một và các bạn hữu đang tụ
họp tại đó. Những người nầy bảo hai ông : « Chúa sống lại thật
rồi, và đã hiện ra với ông Simon ! » Còn hai ông thì thuật lại những
việc đã xảy ra dọc đường, và mình đã nhận ra Chúa thế nào khi Người bẻ
bánh. » (Lc 24,33-35)
lời các Tông Đồ
nói về đặc tính cũng phi thường nơi số phận của Ngài sau khi Ngài chết.
Tiếp đó, những đợt «hứng khởi » làm đà sinh lực cho cuộc sống chúng ta khi
chính chúng ta thực tâm tìm về Đức Giêsu, có thể giúp chúng ta hiểu rằng các
Tông Đồ cũng đã cảm nhận (trong chính tâm hồn họ sau khi Đức Kitô chết)
những tác động như thế và đã tuyên dương Ngài sống lại và Ngài hằng sống. Sự
khác biệt giữa các vị và chúng ta hiển nhiên ở điểm nầy : các vị, và chỉ
có các vị mới được phúc sống các lần hiện ra* và có thể nhận chân được mối liên
hệ giữa Đấng phục sinh và Đức Giêsu mà họ từng sống chung trước khi Ngài chết
(từ phép rửa* của ông Gioan cho đến ngày Ngài lìa « họ ». CV 1,22)
Nếu chỉ dựa trên những gì chúng ta tự mình kiểm chứng, chúng ta không
thể nói Đức Giêsu phục sinh; nhưng những gì chúng ta có thể kiểm chứng lại giúp
chúng ta hiểu và tiếp nhận sứ điệp của các Tông Đồ về mục nầy. Ngược lại, nếu
chỉ có sứ điệp các Tông Đồ, chúng ta sẽ không có giải pháp nào hơn là tin các
vị dựa vào lời họ nói; nhưng nếu sứ điệp ấy có thể soi dẫn những dữ kiện mà
chúng ta có trong tầm tay, nghĩa là chúng ta có thể kinh nghiệm và kiểm chứng,
thì chúng ta có thể dễ xác tín hơn và hân hoan dấn thân trong đức tin của mình
hơn.
Còn
bạn, bạn nghĩ thế nào ?
Chỉ bằng một tác động đức tin, các môn đệ đầu tiên đã chấp nhận theo Đức
Giêsu đáp trả lời kêu gọi đầu tiên của Ngài, họ rong ruổi với Ngài suốt hành
trình thực thi sứ vụ cho đến lúc Ngài chết. Và cũng còn do một tác động đức tin
mà sau khi Ngài chết, mọi sự tiêu điều, họ đã tuyên xưng Ngài sống lại, qua ơn
ích của những lần hiện ra*.
Một lần nữa, chúng ta có dịp nhìn rõ lại cuộc sống đức tin của mình.
Cũng nhờ một tác động đức tin như thế mà ngày nay chính chúng ta mới có thể
nhìn nhận Đức Giêsu-Kitô là:
·
Đấng kêu gọi và lôi
kéo chúng ta theo Ngài,
·
Đấng đem lại ý nghĩa
cho đời chúng ta, làm cho cuộc sống chúng ta «sống lại », luôn mãi canh
tân linh hoạt*,
·
Đấng đến với chúng ta
và thực chứng là hằng sống ngay trong cuộc đời chúng ta,
·
Đấng sống lại và vì
thế có được mối liên hệ duy nhất và vĩnh cửu với Thiên Chúa.
Để vun trồng cuộc sống đức tin đó nơi chúng ta, tất cả còn tùy
vào :
·
sức phấn khởi* [34]
trong mối tương quan của chúng ta với Đức Giêsu có thể làm cho chúng
ta sống, với các Kitô-hữu, trong Giáo hội hay không.
·
những gì chúng ta biết
về Đức Giêsu và về những chứng nhân giúp chúng ta biết Ngài.
·
việc chúng ta sẳn sàng
chấp nhận sự chứng thực * của các Tông Đồ.
Nhưng tất cả những điều nầy lại tùy thuộc vào quyết định cá nhân và
tự do của chính chúng ta. Vì, hôm nay cũng như hôm qua và ngày mai đến mãi
mãi, Đức Giêsu lên tiếng hỏi mỗi một người trong chúng
ta : « Còn bạn, bạn nghĩ thế nào ? Đối với bạn, tôi là ai
IV
Đức
Giêsu-Kitô Chúa chúng ta
Chúng ta tiến đến đâu rồi ? Hãy kiểm điểm lại trong vài hàng trước
khi đi vào giai đoạn bốn và cũng là chương chót trong nỗ lực suy tư về Đức
Giêsu-Kitô. Vấn đề rốt ráo là đến phiên chúng ta, chúng ta có thể nói rằng Đức
Giêsu là "Đấng Kitô" hay không. Qua phần trên, chúng ta nay có thể
nêu lên những điều kiện để có thể thực hiện một lối tuyên xưng đức tin* như
thế.
- Trước hết cần đến một loại kinh nghiệm nào
đó. Chúng ta từng nói rõ là : một kinh nghiệm « về lòng
nhiệt thành * [35]
», chữ
nầy gợi lên hình
ảnh những Kitô-hữu bước đi theo
Đức Giêsu, tiếp nhận lời Ngài, thực thi giáo huấn của Ngài, gặp gỡ tụ họp với
những tín hữu khác đang chia sẻ cùng một lối sống đạo... Kinh nghiệm nầy là
nền tảng cho tất cả. Cách nầy hay cách khác thì cũng phải có kinh nghiệm
như thế mới có thể tin Đức Giêsu-Kitô. Và cần có sự tiếp xúc thành thực với
những người đang sống kinh nghiệm ấy và hôm nay đang làm chứng về niềm tin
của mình, vì đó là điều kiện thiết yếu
« Tôma
trả lời Ngài : « Lạy Chúa tôi
và là Thiên Chúa
tôi ! » (Gioan 20,28)
cho những ai
không tuyên xưng Đức Giêsu-Kitô có thể đi theo bước đường nầy.
- Sau đó phải chấp nhận chứng tá của các Tông Đồ, y như đã được
chép lại trong Tân Ước, và y như điều Giáo Hội còn truyền đạt lại cho chúng ta
hôm nay.
- Cuối cùng phải tự mình quyết định ; hẳn nhiên những người
ngoài, Giáo hội và Thiên Chúa có thể trợ giúp chúng ta, nhưng mỗi cá nhân là
một chủ thể duy nhất đầy đủ tư cách và trách nhiệm để tự quyết định niềm tin
của mình.
Một kinh nghiệm, một qui chiếu,
một quyết định: đó là con đường dẫn đưa từ « Giêsu » đến
« Giêsu-Kitô ». Từ một Đức
Giêsu mà ta có muốn hay không thì Ngài
cũng « đã có trong lịch sử », đến Đức Giêsu mà tôi, hôm nay, tôi nhìn
nhận là Đấng Kitô (của đời tôi).
Khi bước theo con đường nầy để tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Kitô, tôi
nhìn nhận nơi Ngài là :
- Đấng mang lại ý nghĩa và sức sống cho đời tôi hôm nay, nên tôi
nhìn nhận Ngài luôn hằng sống.
- Đấng mang lại cho tôi những gì mà chỉ có Thiên Chúa mới
mang lại được, nên tôi nhìn nhận Ngài là Thiên Chúa.
..... Nhưng ở đây, kinh nghiệm, qui chiếu và quyết định ấy lại hối thúc chúng ta suy
tư :
- Thiên Chúa là ai mà có thể đến với chúng ta nhờ Đức Giêsu-Kitô,
và trong Đức Giêsu-Kitô, Thiên Chúa ấy lại ở trong tầm với của chúng ta [36] ?
- Làm thế nào để hiểu Đức Giêsu-Kitô một khi lịch sử cho chúng ta
hay Ngài là người thật, nhưng chúng ta lại phải nhìn nhận Ngài cũng thật là
Thiên Chúa ?
- Đức Giêsu-Kitô ấy mang lại cho chúng ta điều gì ? và nếu chúng ta
trả lời rằng Ngài đem lại cho chúng ta « phần rỗi », thì điều ấy
nghĩa là gì ?
Chỉ khi chúng ta cố gắng tìm cách nêu lên được, tối thiểu là một vài yếu
tố để trả lời cho những thắc mắc phát xuất từ tận đáy lòng chúng ta như thế,
thì chúng ta mới thấy được tất cả tầm quan trọng của Đức Giêsu-Kitô đối
với chúng ta. Và chúng ta sẽ hiểu được danh xưng cao quí mà Truyền Thống
Kitô-giáo từ xa xưa đã gọi Ngài; danh
xưng mà chúng ta đã cố ý chọn làm tựa đề chương cuối nầy : Đức Giêsu-Kitô
Chúa Chúng ta.
Thiên
Chúa của Đức Giêsu-Kitô
Phải hiểu về Thiên Chúa như thế nào, nếu chấp nhận tin rằng:
- trong Đức Giêsu, Thiên Chúa thật sự tự-thân-hành đến trong tầm với của
chúng ta ;
- nhờ Đức Giêsu, Thiên Chúa tự-hiến-ban Ngài cho chúng ta để chúng ta
nhận ra Ngài, ngay trong đời chúng ta, như là Đấng bồng bế, nâng đỡ và linh
hoạt cuộc sống chúng ta.
- nhờ Đức Giêsu, Thiên Chúa tự-mạc-khải* một cách cụ thể như là Thiên
Chúa-cho chúng ta và ở-với-chúng ta ?
Chúa Con và Chúa Thánh Thần
Như thế, vấn đề không những là Thiên Chúa muốn tự-hiệp thông [37]
với chúng ta, nhưng làm thế nào Ngài có thể thực hiện điều đó !
Nghĩa là : chính Ngài phải là « sự hiệp thông » - nói cách khác
là khả năng tự-hiến-ban, và vừa là quà tặng. Đến đây người ta có thể phải nêu
lên thế nầy : ngay trong tác động
ở bên trong của chính Ngài, Ngài tự-hiến-ban cho một Đấng Khác như thế nào,
thì Ngài cũng có thể nhờ qua Đấng Khác ấy để tự-hiến-ban cho chúng ta
như thế... Diễn tiến nầy hẳn phải giả thiết là Đấng Khác nêu lên ở đây, một
cách nào đó, liên đới với chúng ta !
Quan điểm nầy lại đúng như những gì mà Kinh Thánh và Truyền Thống
Kitô-giáo đã dạy chúng ta. Thật đúng như thế, một mặt Kinh Thánh và Truyền
Thống nói rằng nếu Thiên Chúa « trước hết » là CHA, thì Ngài là Cha
trong tương quan với một ĐẤNG CON trước hết ở trong Ngài (Gioan 1,18
nói là « trong lòng Ngài »). Nhưng mặt khác Kinh Thánh và
Truyền Thống nói thêm rằng Cha đã gữi Con mình mang thân xác làm người
(nhập thể làm người), Ngài đã làm cho Con Ngài trở thành một người ở giữa chúng
ta, để chính chúng ta lại có thể trở thành con Ngài.
Như vậy, nhờ Đức Giêsu-Kitô và trong Đức Giêsu-Kitô chúng ta có thể được
sinh ra và tiếp cận không ngừng với sự sống của chính Thiên Chúa.
Và nếu tất cả những điều nầy chúng ta chỉ có thể tiếp nhận được là nhờ
Thánh Thần, Đấng mà Chúa Cha và Đức Giêsu gữi đến cho chúng ta sau khi Chúa
Giêsu chết và sống lại, thì nơi Thiên Chúa không phải chỉ là Cha và Con, nhưng cũng
có Thánh Thần Yêu Thương. Chính Kinh Tin Kính nói với chúng ta là Thánh
Thần, từ Chúa Cha và Chúa Con « mà ra», là giây liên kết của sự hợp nhất
toàn vẹn Thiên Chúa Ba Ngôi.
Như vậy « sự hiệp thông » của Chúa Cha và Chúa Con thực hiện
trọn vẹn trong Chúa Thánh Thần. Và trong Chúa Thánh Thần, Thiên Chúa tự mình
liên lạc với chúng ta, thông ban cuộc sống Ngài cho chúng ta.
Khi gửi Chúa Thánh Thần đến với chúng ta (Thánh Thần Đấng nối kết chính
Chúa Con với Chúa Cha), thì Chúa Con nhập thể làm cho chúng ta thông dự vào sự
sống của Chúa Cha. Khi thông ban Thánh Thần Đấng nối kết Ngài với Chúa Con, thì
Chúa Cha lại sinh chúng ta, đưa chúng ta vào sự sống của chính Ngài.
Thiên Chúa-Ba Ngôi
Vì thế mà kỳ cùng với điều kiện phải nhìn nhận
Thiên Chúa là « BA NGÔI* » một Chúa Cha, một Chúa Con và một Chúa
Thánh Thần, thì chúng ta mới có thể hiểu - được chừng nào hay chừng ấy !
- rằng Thiên Chúa đến với chúng ta nhờ
Đức Giêsu-Kitô. Và chỉ nhờ
thế chúng ta mới nhận ra được nơi mầu nhiệm không thể hiểu nầy một cái
gì đó hé lộ cho chúng ta nhận ra rằng Thiên Chúa Tối Cao và Toàn Năng thực sự
nối kết chúng ta vào sự sống của Ngài và hiệp thông với chúng ta. Vì nay chúng
ta biết thêm rằng Ngài thực hiện chính sự hiệp
thông nầy khi gửi đến giữa chúng
ta và cho chúng ta Con
«Vậy
anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân
danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần »
(Mt 20,19)
duy nhất là Đấng
Ngài Yêu Thương và là Đấng luôn thông hiệp với Ngài trong Thánh Thần chung của
hai vị.
Khi nối kết chúng ta vào thân phận làm Con (Chúa Cha) của Ngài, Chúa Con
nhập thể đưa chúng ta vào trong dòng sinh lực luôn tác
động và linh hoạt chính cuộc sống Ngài, từ lúc
Ngài được sinh ra trong lòng Đức Maria đến ngày Ngài Phục Sinh.
Nhờ Chúa Giêsu-Kitô, với Ngài và trong Ngài, hiệp nhất cùng Chúa Thánh
Thần, chúng ta có thể xưng hô « Thiên Chúa Toàn Năng » là « Cha
chúng ta » và « ca tụng và tôn vinh Ngài », « để mọi người
được cứu rỗi ».
Nhưng điểm nầy nêu lên cho chúng ta hai thắc mắc nữa cần truy xét.
Mầu
nhiệm Đức Giêsu-Kitô
Nếu Đức Giêsu có thể giúp chúng ta tiếp cận với Thiên Chúa vì Ngài là
Con Thiên Chúa* nhập thể*, Ngài lại cũng luôn là con người Giêsu, Con của bà
Maria, vị tiên tri ở Nazareth, người bị Philatô lên án, bị đóng đinh trên đồi
Golgotha. Như thế câu hỏi đặt ra cho chúng ta là bằng cách nào Ngài vừa là người
và vừa là Thiên Chúa.
« ...và
tất cả những gì thuộc về con thì cũng thuộc về Cha, và những gì thuộc về Cha
thì cũng thuộc về con » (Ga 17,10)
« Tôi không thể tự ý mình làm gì (...) vì tôi không tìm cách
làm theo ý riêng tôi, nhưng theo ý Đấng đã sai tôi » (Ga 3, 30)
Con Thiên Chúa, nhập thể
Ở đây chúng ta cần lưu ý một điều hết sức quan
trọng : Đức Giêsu không phải là « Thiên Chúa » nói chung chung
một cách trừu tượng[38], nhưng là Con Thiên Chúa. Vì trong Con Thiên
Chúa, sự kết hiệp thiên tính và nhân
tính (kết hiệp bản tính* Thiên Chúa và bản tính* con người của Ngài) bấy giờ không thể quan
niệm như là việc xếp cạnh bên nhau của hai thực thể xa lạ và bất động. Hai
thực thể nầy hẳn nhiên khác nhau [39]và
sẽ mãi mãi khác nhau. Và còn hơn thế nữa giữa hai thực thể nầy có khoảng cách
vô tận phân cách « Thiên Chúa » và những gì không phải là Ngài. Nhưng
điều phải nhớ là hai thực thể nầy, vẫn luôn khác biệt, lại được linh hoạt và
xuyên suốt bởi cùng một động lực [40]
làm cho đôi bên chung sống, khác nhau nhưng lại hiệp nhất. Động lực đó, năng
lực tự-thực-hiện chính mình khi triển khai những sức linh hoạt của mình, là
động lực của chính Con Thiên Chúa (của « ngôi vị » riêng là
Chúa Con trong Thiên Chúa).
Trong Thiên Chúa, Chúa Con chỉ hiện hữu và tác động đầy đủ ngôi vị làm
Con khi tiếp nhận không ngừng từ Chúa Cha và tự-hiến-lại cho Chúa Cha
không ngừng (trong Thánh Thần chung của hai vị). Đó là « hữu thể [41]» của Ngôi Con.
Nên nay có thể hiểu được rằng khi làm người, Chúa Con ấy mặc lấy nhân
tính trong tác động và sinh lực[42]
làm Chúa Con của chính mình, nhân tính tiếp nhận nơi Đức Maria
và sẽ là nhân tính của « Đức Giêsu Nazareth ». Người ta
có thể hiểu được điều nầy, đúng như vậy, vì, giống như sự sống con người, sự
sống Con Thiên Chúa được thực hiện trong mối tương giao với Thiên Chúa, một mối
tương giao cũng được liên kết bởi tác động tiếp nhận và dâng trả lại.
Trong Đức Giêsu, không có sự mâu thuẫn nhưng ngược lại là sự đồng qui
giữa khía cạnh là Thiên Chúa và khía cạnh làm người. Trong
thực tế cụ thể của hai bản tính nầy, đôi bên đều được xuyên suốt và linh hoạt
bởi cùng một động lực nền tảng chung. Động lực nầy phát xuất từ Ngôi Con Thiên
Chúa, đó cũng là động lực nhờ đó Chúa Con tự-thực-hiện mình là Con trong Thiên
Chúa. Nhưng động lực nầy vừa không ngừng hiện diện trong nhân tính của
người-Giêsu, lại vừa giúp Ngài tự-thực-hiện theo chương trình riêng của
Ngài trong tư thế Chúa Con. Đó
là điều mà
chúng ta nhận ra nơi chân dung Giêsu của các Phúc Âm. Ngài nói
rằng Ngài chỉ muốn nói hay làm điều gì mà Cha muốn Ngài phải nói và phải làm mà
thôi (Gioan 4,34 ; 5,36). Ngài chỉ muốn hoàn
« Ngay
giờ ấy, được Thánh Thần tác động Đức Giêsu hớn hở vui mừng và nói : ‘
Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha...’ » (Lc 10,21)
thành ý Cha
(Gioan 5,30). Ngài đi vào sự chết là trao phó thân Ngài lại trong tay Cha (Lc
23,46). Nên sự sống lại của Ngài do đó cần được hiểu là một cuộc tái-sinh [43]
vuợt lên trên sự chết (CV 13,33 ; Rm 1,4).
Nói chung, chúng ta thấy toàn bộ cuộc sống của Đức Giêsu, chết và ngay
cả sự sống lại, thể hiện động lực nền
tảng « tiếp-nhận / dâng-trả-lại», là nét đặc trưng, và ngay cả là thành tố
tạo thành chính Ngôi Con trong Thiên Chúa; động lực đó được ghi khắc nơi một
nhân tính hoàn toàn giống với nhân tính chúng ta (trừ tội lỗi).
Con người Giêsu, hiệp nhất với Chúa Con
Không có gì phải sợ về việc Chúa Con
vì nhập thể mà giảm tính Thiên Chúa đi. Khi Ngài nhập thể, Ngài luôn vẫn
là Con Chúa Cha và đưa nhân tính của Ngài vào chính động lực linh hoạt Ngài
trong Ngôi vị Chúa Con. Cũng không có gì phải sợ nhân tính của Đức Giêsu ít
chất người (hoặc cao vượt nhân tính!). Kỳ thực, Thể theo nhân tính nầy mà
Chúa Con linh hoạt, tác động, dẫn lối, và thấm nhập Đức Giêsu... và đưa
Ngài vào động lực của Thiên Tính làm Con trong Thiên Chúa Ba Ngôi [44].
Trong nhản quan đó, chúng ta đề cập đến vấn đề đau khổ hoặc việc không
biết một số sự việc (xem Mc 13,32) nơi con người Giêsu, cũng như vấn đề Ngài có
ý thức thiên tính của Ngài hay không. Cũng như Ngài đã chịu khổ đau như thế nào
trong thân phận con người [45],
khổ đau lại do Con Thiên Chúa mang nhận, thì cũng một cách ấy trong
thân phận con người Ngài ý thức về thân thế Ngài [46]
. Ý thức của Ngài là ý thức chỉ hiện hữu « từ » Thiên Chúa và do
Thiên Chúa, từ Chúa Cha và bởi Chúa
Cha; là ý thức tiếp nhận và luôn mãi tiếp nhận từ nơi Cha để
dâng trả lại cho Cha ; là ý thức về mối liên hệ duy nhất cực kỳ thắm
thiết, cực kỳ gắn bó. Mối liên hệ đó là nguồn hoan lạc vô song (Lc 10,21) và sự
vững tâm tuyệt đối bất chấp mọi thử thách, kể cả lúc cảm thấy bị bỏ rơi : tiếng kêu : « Tại sao Cha lại bỏ
Con ? » (Mc 15,34) vẫn còn là một lời cầu xin vì là lời kêu đến Chúa
Cha. Mối liên hệ nầy không có gì, không có ai, không nơi nào, không lúc nào có
thể đặt lại thành vấn đề dầu chỉ một chấm phết; ngay cả « xuống địa ngục* » của sự
chết cũng sẽ không phôi pha.
Sự
cứu độ từ Đức Giêsu-Kitô
Thiên Chúa đã gửi Con Ngài cho chúng ta để hiệp thông với chúng ta; để
nâng đở, soi đường và ban sức mạnh cho đời chúng ta; nhưng sự hiệp thông đó
được mặc khải cho chúng ta như thế nào ? Và nếu sự cứu độ nằm trong điều
nầy, thì phải hiểu sự cứu độ như thế nào cho đúng ?
Trở thành con cái Thiên Chúa cho đến muôn đời
Trước hết chúng ta định nghĩa sự cứu độ : là chúng ta có thể sống sự
sống mà Thiên Chúa ban tặng cho chúng ta nhờ Con Ngài trong Thánh Thần. Được
cứu độ có nghĩa là (ơn) ân sủng* giúp đi vào sự hiệp thông với Thiên Chúa của
Sự Sống, Thiên Chúa Hằng Sống và ban Sự
Sống. Và đồng thời nhờ đức tin mà có thể bảo đảo mình vượt qua được mọi trở
ngại ngăn cản sự sống nầy: tất cả mọi khổ đau và ngay cả sự chết, để sống lại*, tiếp theo Đức Giêsu-Kitô, trong
sự sống không còn chết nữa, trong Vương quốc mà « Thiên Chúa sẽ lau
sạch mọi nước mắt » ( Kh 7,17 ; 21,4), trong Thành Giêrusalem trên
trời, nơi sẽ tụ tập những người được cứu độ « thuộc mọi ngôn ngữ, dân
tộc và quốc gia » (Kh 7,9) giữa muôn lời ca ngợi tạ ơn hỉ hoan.
Đó là động lực nền tảng của sự cứu độ : nhờ Thánh Thần mà Chúa Cha
và Chúa Con gửi đến, chúng ta được liên kết vào mối quan hệ Cha-con với Thiên
Chúa của Chúa Con. Từ thân phận và tầm vóc của chúng ta, chúng ta nhờ Ngài mà
được sinh ra trong chính sự sống của Thiên Chúa. Vì thế chúng ta được mời gọi
để sống sự tự do của kẻ làm con, để hợp tác vào công trình của Chúa Cha, để
hưởng tất cả ơn ích mà Ngài đã định cho chúng ta, và tiếp nhận gia sản dành cho
chúng ta trong tư cách là « kẻ đồng hưởng gia nghiệp » của Con Ngài
(Rm 8,17).
Và vì việc nầy thực sự chỉ có thể thực hiện được trong Đức Giêsu-Kitô và
bởi Đức Giêsu-Kitô, nên cụ thể khi chúng ta tham gia vào các bí tích * của
Giáo Hội, thì chúng ta được kêu mời để tiếp nhận sự hiệp thông toàn vẹn vào
sự sống đến từ Thiên Chúa và được đưa đến ngang tầm chúng ta trong lịch sử con
người. Những bí tích* - trước hết là Rửa tội và Thánh Thể*- là những dấu chỉ
sống động và hữu hiệu để Thiên Chúa tiếp tục đến gặp gỡ chúng ta, trao ban cho
chúng ta sự sống của Ngài sau ngày Chúa Giêsu ra đi.
Ơn tha thứ, một ơn huệ vô thường[47]
Tuy nhiên trở ngại chính cho sự thực hiện ơn cứu độ là tội lỗi.
Đúng như thế, ơn cứu độ giả thiết ta mở
rộng tâm hồn, tiếp đón, và sẳn sàng chấp nhận Đấng đề nghị ơn cứu độ cho mình.
Nhưng tội lỗi lại là thái độ ngược lại : tự mãn đến độ khinh thị kẻ khác,
từ chối tiếp nhận kẻ khác vào trong cuộc sống mình, từ chối tin cậy và phó thác
vào kẻ khác.
Nói cho đúng, Thiên Chúa cũng không làm gì được trước một thái độ như
thế, một sự từ khước như thế, vì Ngài đã muốn chúng ta tự do, và Ngài tôn trọng
chúng ta tự do như thế trong mọi thái độ nầy khác của chúng ta. – Đúng hơn thì
Ngài vẫn làm được điều nầy; Thiên Chúa có thể còn làm một việc, một việc
thôi : chứng tỏ cho chúng ta hay rằng, chúng ta có đối xử thế nào đi nữa,
thì ít nhất Ngài còn làm được điều nầy là không bỏ rơi chúng ta và tiếp tục yêu
thương chúng ta. Đó đúng là ý nghĩa việc
Đức Giêsu đến
trong thân phận làm người hoàn toàn giống chúng ta.
« Cuối cùng Ngài đã gửi con Ngài đến » (Mt 21,37).
Nếu Thiên Chúa cứu chúng ta, thì không phải như một nhà độc tài bắt buộc
chúng ta phải chấp nhận các ơn huệ mà không được nói gì hết, hoặc như một kẻ cả
vừa gia ân vừa khinh khi làm nhục kẻ mang ơn. Thiên Chúa đến với chúng ta như
một người trong chúng ta, mang trọn thân phận của chúng ta, ngay cả chấp nhận
những hậu quả của tội lỗi; thực đúng như thế: Đức Giêsu sẽ phải chịu án tử
hình.
Thiên Chúa yêu chúng ta không vì gì cả, một ơn huệ* vô thường, mãi mãi.
« Chỉ cần » chúng ta hiểu điều đó và rút ra những hệ quả – và chúng
ta sẽ được tha thứ, giải thoát mọi tội lỗi, vươn ra khỏi sự hư hoại, đưa lên
phẩm giá của kẻ làm con. Sự tha thứ của Thiên Chúa hoàn toàn, trọn vẹn, không
tơ vương ân hận chi nơi Ngài. Chỉ cần chúng ta đón nhận mà thôi.
Chúng ta cần lưu ý điểm nầy, trong ơn tha thứ của Thiên Chúa, không phải
như hình ảnh kinh hoàng của một kẻ tàn bạo mà người ta vô tình (nếu không nói
là cố ý !) gán cho Ngài khi nói Ngài buộc Con Ngài phải nhập thể để
« trả » thay cho chúng ta, và chỉ hả giận khi thấy cho bằng được máu
huyết lai láng đổ ra. Đã hẳn rằng công việc Đức Giêsu đã làm và số phận mà Ngài
phải chịu rất nặng nề. Những sự kiện đó tự chúng cho chúng ta thấy tầm gia
trọng của tội lỗi mà cuộc đời của Ngài phải là sự cứu chuộc*.
« Vì
chính Cha thương yêu anh em »
(Gioan 16,27)
« Bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta, đó là lúc chúng ta còn
là người tội lỗi, thì Đức Kitô đã chết cho chúng ta » (Rm 5,8)
Nhưng đừng cho rằng nhờ những tang thương nầy, nhờ giá khổ đau của Ngài
mà Đức Giêsu sẽ làm cho Thiên Chúa từ giận dữ đổi sang khoan dung đối với chúng
ta.
Thực ra, Đức Giêsu chết trên thánh giá không là nguyên nhân làm cho Thên
Chúa tha thứ : Ngài khai mở cho thấy ơn tha thứ[48]. Ngài không là nguyên nhân theo
nghĩa rằng Ngài không ép Thiên Chúa phải quyết định đi từ giận dữ đến khoan
dung nhờ vào chiến công hiển hách nào đó của Ngài.
Trái lại Ngài chỉ mặc khải cho thấy rằng Thiên Chúa không
thay đổi thái
độ đối với
chúng ta, Thiên Chúa chờ đợi
chúng ta và rộng tay tiếp đón chúng ta, nếu chúng ta từ chốn lầm lạc đồng ý
quay về lại với Ngài. Dụ ngôn tuyệt vời về đứa con hoang đàng, với hình ảnh
người cha hân hoan chào đón đứa con lạc đường trở về (Lc 15,11-32), có nói gì
khác hơn đâu ?
Kêu gọi thực thi thân phận làm người
(phận vụ dành cho chúng ta)
Nhưng sự cứu độ không phải việc làm của một mình Con Thiên Chúa. Sự cứu
độ không thể thực hiện nếu không có chúng ta tham gia. Con Thiên Chúa mang ơn
cứu độ cho chúng ta khi Ngài nhập thể, chết và sống lại, nghĩa là mang nhân tính và làm người. Ơn
cứu độ ấy sẽ không thể chỉ « mang nhân tính[49] »
nơi người mang đến; nó cũng cần mang nhân tính nơi những kẻ nó hướng đến:
nó chỉ hiện thực một khi có sự hợp tác và với sự hợp tác của kẻ thụ nhận
(mang nhân tính).
Cộng tác như thế nào đây ? Thay đổi tâm tư và từ bỏ tính ích kỷ và
tôn sùng những thần tượng của mình để gặp gỡ một Thiên Chúa hằng sống và chân
thật, - vâng đúng như thế ! Nhưng đồng thời cũng diễn tả thái
độ từ bỏ tội lỗi và quay về với Thiên Chúa hằng sống trong cách sống của mình
đối với kẻ khác, với tất cả những kẻ khác trên thế giới. Không thể yêu Thiên
Chúa mà ta không thấy, nếu không yêu người anh em mà ta thấy. Không thể đón
nhận được sự sống là ơn cứu độ vào tâm hồn ta, nếu chúng ta không dấn thân
thăng tiến đời sống anh em chúng ta trên thế giới.
Vì tất cả những chương trình sinh hoạt cuộc đời chúng ta liên hệ với
nhau : đời sống cá nhân, gia đình,
xã hội, chính trị. Nếu sự cứu độ của con người chính là sự sống Thiên
Chúa, thì cuộc sống của con người mà Thiên Chúa muốn cứu độ lại tùy thuộc vào
những nỗ lực nơi trần thế nầy. Vì con người thực sự cần có phương tiện để sống
còn, có cơm ăn, áo mặc và tự do không bị áp bức trói buộc, để có thể tiếp nhận
đề nghị cứu độ của Thiên Chúa, và có thể đáp trả. Không ai tin vào sự cứu độ
của Thiên Chúa mà có thể thờ ơ với những hoàn cảnh sống cụ thể của những kẻ
được ơn cứu độ kêu mời. Trong một nghĩa nào đó, ta nói rằng sự cứu độ của Đức
Giêsu-Kitô nhằm khai lộ hướng đến một cuộc sống bất diệt, sẽ không thể nào tiến
hành nếu không có sự giải phóng cuộc sống trần thế nầy.
Còn những người khác ?
Đây hẳên là câu hỏi cuối cùng : còn những kẻ không biết Đức Kitô,
thì không thể, đã và sẽ không thể tiếp nhận chương trình cứu độ của Ngài hay
sao ?
Câu hỏi quá bao la, nhưng cũng phải cố gắng trả lời một cách hết sức gãy
gọn.
Đối với đức tin Kitô-giáo, chắc chắn Thiên Chúa muốn mọi người,
không phân biệt là ai, đều hưởng ơn cứu độ trong Đức Giêsu-Kitô. Và không phải
vì một số người chưa biết đến Đức Giêsu-Kitô mà dự định của Thiên Chúa không có
giá trị đối với họ : khả năng cứu độ mà Đức Giêsu-Kitô mở ra cũng đến với
họ, vì khả năng đó tuyệt đối đến với mọi người.
Như vậy phải chăng nói rằng họ sẽ được cứu độ dù họ có muốn hay không,
hoặc không cần gì họ phải cộng tác ? Cả hai đều không phải. Cũng cần có sự
cộng tác của chính họ ; và sự cộng tác đó phải thể hiện nơi cuộc sống của
họ, quên mình và từ bỏ tính ích kỷ và khép kín tự mãn. Phục vụ và yêu thương.
Mặc dầu các việc lành nầy ở bên ngoài mọi sự nhận biết Đức Giêsu–Kitô, nhưng
chúng dẫn lối cho người thực hiện hưởng những gì mà Đức Giêsu-Kitô hứa ban cho
những ai sống y như họ; bởi vì chính Đức Giêsu-Kitô kêu mời mọi người bước đi
trên nẻo đường nầy.
Vì một sự cộng tác như thế mọi người có thể thực hiện, nên không ai tiên
thiên bị đặt ra ngoài ơn cứu độ của Đức
Giêsu-Kitô. Vì mọi người đều được mời gọi và có phận vụ phải thực thi, nên
không một ai có thể cứu độ một cách dễ dãi hay đại khái cả. Mọi người, kể cả
những
« Còn
chúng ta, chúng ta đã nhận biết tình yêu của Thiên Chúa nơi chúng ta, và đã tin
vào tình yêu đó. Thiên Chúa là tình yêu : ai cư ngụ trong tình yêu, thì cư
ngụ trong Thiên Chúa, và Thiên Chúa cư ngụ trong người ấy » (1 Ga 4,16).
người không
phải là Kitô-hữu, đều được kêu mời để hưởng ơn cứu độ*, một ơn cứu độ gắn liền
với một phận vụ* cần phải thực thi bằng mọi
giá; sự cứu độ nầy trước hết vẫn là một
ân huệ vô thường ban cho mọi người, kể cả Kitô-hữu.
Chúng ta sẽ kết luận trong một chữ nầy thôi: « Đức Giêsu-Kitô Chúa
chúng ta » : cùng với Truyền Thống Kitô-giáo xa xưa nhất, chúng
ta sẽ tôn vinh Đức Giêsu bằng danh xưng nầy ; chúng ta được
mời gọi để nhìn nhận Ngài là Đấng Kitôø qua danh xưng nầy. Đức Giêsu ấy,
Thánh Gioan ghi lại trong Phúc Âm (Gioan 20,28) rằng tông đồ Tôma đã xác tín để
tuyên xưng là « Chúa của tôi và Thiên Chúa của tôi».
Phúc cho chúng ta nếu hành trình đi từ « Đức Giêsu » đến
« Đấng Kitô », - giống như diễn biến tâm thức của người chứng vốn
cứng lòng tin ấy -, giúp chúng ta khám phá và thâm tín rằng Đức
Giêsu-Kitô
- là một CHÚA, tự hiến mình làm KẺ PHỤC VỤ cho phần rỗi chúng ta,
- và là một THIÊN CHÚA tự mình muốn làm ANH của chúng ta đến muôn
đời.
Từ vựng
Affaire
« Jésus » (ou Cause de
Jésus)
Công cuộc của « Đức Giêsu » (hoặc sứ vụ của Đức Giêsu)
Sự kiện liên quan đến việc, sau khi Đức
Giêsu đã chết, người ta vẫn tiếp tục nhắc nhở Ngài và « đi
theo* », sống theo giáo huấn và gương mẫu của Ngài qua bao thế kỷ đến ngày
hôm nay. Trong ý nghĩa đó, sự kiện « Giêsu » luôn dấy lên nơi nhiều
người câu hỏi mà chính Ngài đã từng nêu lên về thân thế Ngài : «Và
các bạn, các bạn nghĩ thế nào ? Đối
với các bạn, thầy là ai ? » (Mc 8,27-29)
Agneau
de Dieu
Chiên Thiên Chúa
Tước hiệu áp dụng nơi Đức Giêsu (nhất là sách Khải Huyền, cuốn sách cuối
cùng của Kinh Thánh) kết hợp hai hình
ảnh Chiên vượt qua của người Do-Thái (Xh 12,1...) và hình ảnh Tôi tớù của Giavê
(Is 53,7). Con chiên được tế lễ và tôn vinh nơi Đức Giêsu-Kitô tượng trưng sự
toàn thắng của Ngài trên sự chết và ơn cứu độ mà Ngài mang lại cho nhân loại
bằng chính máu của Ngài đã đổ ra.
Apôtres
Các Tông Đồ (tông đồ)
Tiếng Hy-Lạp có nghĩa là « được gửi đi ». Trước hết, một cách
tổng quát, trong Tân Ước chữ nầy nói đến những vị mang sứ điệp Phúc Âm và những
vị thành lập – thăm viếng những cộng đoàn Kitô-giáo tiên khởi ; nhưng dần
dà được thực sự dành riêng để chỉ Mười Hai vị môn đệ-đồng hành được Đức
Giêsu chọn, kết tập và gửi đi (xem Mc 3,13-19) nhằm kéo dài và tiếp nối công
việc của Ngài.
Apparitions
Những lần hiện ra
Những lần Đức Giêsu xuất hiện giữa các môn đệ* Ngài sau khi Ngài chết. Chứng thực* rằng Ngài
không còn bị cấm cố trong mồ, không những Ngài sống lại mà mãi hiện diện ở giữa
người của Ngài, mặc dầu bằng một lối mới – đó là ý nghĩa của lần ra đi dứt
khoát (sau lần hiện ra cuối cùng) trước mặt họ trong ngày « Lên
Trời »
Attestation,
attester
Chứng thực, Làm chứng
Baptême
Phép thanh tẩy, phép thánh tẩy, phép rửa
Được tắm trong nước, mặc dầu mắt không thấy nhưng con người thực sự được
làm hồi sinh và được thanh tẩy, mà nước là dấu chỉ và biểu tượng. Phép rửa là
bí tích* khới nguyên của Kitô-giáo
Baptistes
Phái Thanh Tẩy
Những tín đồ thuộc các nhóm tôn giáo chủ trương thực hiện nhiều cuộc
lặn, tắm trong nước như nghi lễ thanh tẩy. Gioan xem ra thuộc vào trào lưu tôn giáo nầy – nên gọi là « Tẩy
Giả » , và là người sẽ làm phép rửa cho chính Đức Giêsu - nhưng khác với các nhóm ấy nhiều điểm :
chỉ thực hiện phép rửa một lần mà thôi, ưu tiên đề cao cuộc sống đạo đức hơn là
hình thức nghi lễ ; Gioan lên tiếng kêu gọi mọi người (chứ không phải chỉ
những « người chuyên môn » tìm đức tinh khiết hoặc những « kẻ ưu
tiên sống thánh thiện ») ; Ngài kêu mời hoán cải tâm hồn chuẩn bị cho
kỳ Phán Xét đang đến gần, thấu soi « lòng dạ » con người nhằm mở ra
một Triều Đại « công chính » của « thời mới » (Mt 3,1..)
Catholiques
Người Công giáo
Trước hết họ là Kitô-hữu*. Tuy nhiên họ khác với những phần tử các
« giáo hội » (confessions = cộng đồng tuyên xưng đức tin) Kitô-giáo
khác (nhất là giáo hội Tin Lành và Chính Thốâng-giáo) về nhiều điểm quan trọng
về tín điều : Giáo Hội và giáo hoàng, các bí tích, Trinh Nữ Maria v.v. Họ
khẩn thiết tìm kiếm sự hiệp nhất chân thật để thực hiện cụ thể sự phổ quát
(Công-giáo-tính có nghĩa là phổ–quát-tính) của Giáo Hội, như lời cầu xin của Đức Giêsu :
« Xin cho tất cả nên một như Cha và Con chúng ta là một » (Ga
17,21).
Cène (ou : dernière Cène)
Tiệc ly
Bữa ăn cuối cùng của Đức Giêsu với các môn đệ của Ngài, bữa ăn vào
« ban tối, đêm Ngài chịu giao nộp ». Trong bữa ăn nầy, Đức Giêsu
nhắc lại giáo huấn của Ngài về yêu
thương và hiệp nhất, diễn tả sự phó thác của Ngài nơi Cha Ngài và tin tưởng vào
sự toàn thắng của Ngài trên sự chết sắp đến ; và cuối cùng Ngài xin họ
thực hiện lại cử chỉ của Ngài « để nhớ đến (Ngài) » (phép Thánh
Thể*).
Christ
Kitô
Tiếng Hy-Lạp – Christos – dịch
chữ Do-Thái là « Thiên Sai* » và từ
đó kết hợp tên Đức Giêsu làm thành
chữ « Giêsu-Kitô »
Concile
Công đồng
Các giám mục họp nhau để xét nhiều vấn đề của cuộc sống Kitô-hữu và đức
tin Giáo Hội vào một thời kỳ nào đó. Có những công đồng riêng và những công
đồng chung (hoặc: phổ quát, toàn thế giới, hoặc đại kết (oecuméniques) nghĩa là
toàn thể các vùng đất có người cư ngụ : oikouméné). Hai công đồng chung
đầu tiên đề cập đến Mầu nhiệm* Thiên Chúa-Ba Ngôi* : Nicée (325) và
Constinôpôli I (381), hai công đồng chung kế tiếp về Mầu nhiệm* Đấng
Kitô : Êphêsô (431) và Chalcédoine (451). Hai công đồng chung gần đây nhất
về chính Giáo Hội và đức tin trong thế giới ngày nay : Vaticanô I
(1869-1870) và Vaticanô II (1962-1965).
Consubstantiel
Đồng bản tính
Tương ứng với chữ homoousios tiếng hy lạp được dùng trong công đồng
Nicée (325) nhằm diễn tả, một cách chính xác tối đa có thể, sự kiện Ngôi Lời*
nhập thể* được mạc khải* nơi Đức Giêsu ngang với Chúa Cha trong mọi
điểm, nên cũng là Thiên Chúa như Chúa Cha, mặc dầu là Con* Ngài. Bản Kinh Tin
Kính chúng ta đã dịch homoousios là « đồng bản tính (với Đức Chúa
Cha) ». Tiếng Latinh là
consubstantialem Patri – cùng một bản thể: Chúa Con hay Lời Thiên Chúa thực sự
thuộc về cùng chính « Thựïc Thể-Thiên Chúa », cùng chính « Hữu
Thể-Thiên Chúa » như Chúa Cha ; Chúa Cha và Chúa Con-Ngôi Lời ( và
Thánh Thần) cùng nhau là một Thiên Chúa
duy nhất.
Croire
Tin (xem bản văn, mục «Tin Đức
Giêsu-Kitô » tr. 61)
Croix
Thánh giá (xem chữ Passion*)
Descente
aux enfers
Xuống âm phủ, địa ngục
Nói rằng Đức Giêsu « xuống địa ngục » (Kinh Tin Kính đọc là ‘xuống ngục tổ tông’ trang 24, sánh Nhựt
Khóa, Tân-Định- Saigon 1965) là nói rằng Ngài đã kinh nghiệm sự chết trong mọi
chiều sâu bi thảm của nó ; nhưng
cũng xác nhận Ngài đã vượt thắng sự chết một cách hoàn toàn và vĩnh viễn. Từ
nay mọi người được kêu gọi để hiệp lời tung hô của thánh
Phaolô : « Ôi sự chết, đâu là chiến thắng của
ngươi ? » (1 Co 15,55)
Disciples
Các Môn Đệ
Những người đã nhìn nhận Đức Giêsu là thầy mình và đi theo* Ngài, đón
nhận lời dạy của Ngài và cố gắng thực thi.
Esprit
Saint
Thánh Thần, Chúa Thánh Thần (xem
bản văn, mục « Chúa Con và Chúa
Thánh Thần » tr. 78 ...)
Eucharistie
Phép Thánh Thể
Bí tích* của Giáo Hội (xem Baptême : Phép Rửa) tưởng nhớ biến
cố Vượt qua* của Đức Giêsu-Kitô. Vừa để
« tạ ơn = eu-charisten » Thiên Chúa vừa để tiếp nhận những hoa trái
do công cuộc nầy, bằng việc thực hiện lại Hy tế* là ý nghĩa của biến cố Vượt
qua, trong mỗi thánh lễ. Việc tín hữu tiếp nhận những hoa trái nầy kết hợp họ
thành một thân thể sống động – là Giáo Hội - , và chính Giáo hội ấy lại được kêu
mời để sống đúng Mầu Nhiệm* Vượt qua.
Exégètes
Các nhà chú giải (minh giải) Kinh Thánh
Những người có kiến thức chuyên môn nghiên cứu các bản văn Kinh Thánh,
áp dụng các phương pháp khoa học để tìm hiểu các bản văn (phê bình văn chương
và lịch sử, ký hiệu học...) nhằm trình bày lại rõ ràng việc thành hình ( trước
tác), cấu trúc và cả « ý nghĩa » của chúng.
Exode
Xuất hành, đi ra khỏi đất Ai Cập hướng về Đất Hứa (xem chữ Pâque*)
Fils
de Dieu
Con Thiên Chúa
Tước hiệu dùng nhiều trong Kinh Thánh (và trong vùng Cận-Đông) để nói
đến mối liên hệ và sự thân mật của những người liên quan (nhất là vua, nhưng
đôi khi cũng nói đến dân, các thiên thần...) và Thiên Chúa. Khi áp dụng vào Đức
Giêsu (đặc biệt nơi thánh Phaolô) thì tước hiệu nầy nói đến Đức Giêsu là Con
riêng và thật sự, « duy nhất » và « luôn được mến yêu » của
Chúa Cha, có bản tính* Thiên Chúa và đồng bản tính* với Chúa Cha, (với Thánh
Thần) kết hợp với Chúa Cha thành một Thiên Chúa duy nhất (xem chẳng hạn Rm
8,32)
Fils
de l’homme
Con người, Con của người
Tước hiệu nầy chính yếu rút từ
sách Daniel (Đn 7,13...) ; dường như đây là tước hiệu duy nhất mà
Đức Giêsu trực tiếp áp dụng cho chính Ngài. Một mặt nó diễn tả nhân tính thực
sự của Đức Giêsu, mặt khác nó cũng nhấn mạnh chiều kích siêu việt, vinh hiển,
« chiều kích trời », mà ngay cả Khổ nạn của Ngài càng cho thấy rõ hơn
(Mc 8,31 ; 9,31 ; 10,32). Chiều kích ấy sẽ khai mở trọn vẹn vào Ngày
Quang Lâm, Thời Cánh Chung, nghĩa là lúc Ngài sẽ Trở Lại « trên các tầng
mây trời » (Đn , như trên) và tỏ bày vinh quang của Ngài vào ngày tận thế
( Mc 13,26).
Foi
Đức tin (xem chữ Croire*)
Gloire
Vinh quang (Xem chữ Puissance*)
Grâce
Ân sủng, ơn huệ
Sự hiệp thông mà Thiên Chúa tự ý nối kết với con người theo sự tốt lành
nhưng không, phát sinh từ chính sự sống của Ngài - nghĩa là phát sinh từ chính
Ngài – nhờ Con* Ngài Đức Giêsu-Kitô,
trong Thánh Thần*.
Hérésie
Lạc thuyết
Sai lạc về tín lý, thường phát sinh
từ việc phóng đại hay nói quá mức về một chân lý cục bộ hơn là việc quả
quyết một điều sai lạc hoàn toàn. Những chân lý có tầm quan trọng tương đương
hoặc cao hơn bấy giờ bị che khuất hoặc bị bác khước.
Hypostase
Ngôi vị
Xem chữ Personne*, lúc ban đầu ý nghĩa khác nhau, nhưng không bao lâu
lại xem là tương đương (xem ngay bản văn của công đồng Chalcédoine trích trong
sách nầy tr. 27-28)
Identité
Lý lịch, căn cước, căn tính
Là điều xác định X là X chứ không phải là Y (như « giấy căn cước,
tờ khai lý lịch »)
Image
de Dieu
Hình ảnh Thiên Chúa
Từ ngữ nầy áp dụng vào Đức Kitô theo một nghĩa rất mạnh trong nhiều bản
văn của thánh Phaolô (2 Cr 3,18 ;Cl 1,15 ; xem Dt 1,3) để giúp chúng
ta hiểu rằng, nếu nơi chính Thiên Chúa, Ngôi Lời*-Chúa Con* là đấng toàn hảo
như Chúa Cha, thì dưới đất và trong lịch
sử, con người Giêsu xét về mặt nhân loại là sự
(đại) diện - sự biểu lộ - sự mạc khải trung thực của Mầu nhiệm về Thiên
Chúa (vốn không thể với đến hay nhìn thấy được).
Incarnation
(Mầu nhiệm) Nhập thể
Từ ngữ trừu tượng nhằm chỉ việc chính Thiên Chúa, trong Ngôi Lời*-Chúa
Con* (mà từ đó lại nói « Ngôi Lời nhập thể », « Chúa Con nhập
thể») đến trong « thân xác » và sống trong « thân xác »
- nghĩa là trong thân phận con người với
tất cả những giới hạn của con người « ngoại trừ tội lỗi ».
Israel
Israel
Bên cạnh những ý nghĩa cục bộ hơn, tên gọi nầy nhằm nói đến Dân của Cựu
Ước, đối lại – theo thánh Phaolô - với Israel « mới » hoặc « theo
Thánh thần », đó là Giáo Hội, Thân Thể Đức Kitô.
Judaïsme
Do-Thái giáo
Toàn bộ những niềm tin, truyền thống và định chế đã và đang giúp cho
người Do-Thái quan niệm mình là một đơn vị văn hoá-xã hội và tôn giáo nhất định
(như một dân tộc), xuyên qua các thời đại với những thăng trầm và chuyển biến
của lịch sử.
Logos
Lời (xem chữ Verbe*)
Lumières
(Trào lưu) Ánh Sáng
Phong trào tư tưởng quan trọng của Âu Châu trong các thế kỷ XVII và XVIII
chủ trương lấy lý trí kiểm thảo làm thẩm quyền duy nhất về chân lý và chống
báng ngay chính nguyên lý của mạc khải* và đức tin* qui chiếu vào mạc khải.
Luther
Luthêrô (1483-1546)
Là người khai sinh và cổ võ một
phong trào Cải Cách sau đó gọi là
« hội thánh Tin Lành» ; phong trào nầy sẽ có nhiều tầm mức quan trọng
khác nhau, nhưng được biết đến trong việc thẩm định một cách cương quyết vị thế
của Đức Kitô (và sự cứu độ mà Ngài đem lại) trong đức tin Kitô-giáo, và đồng
thời trong thái độ cương quyết không kém chống lại một số khía cạnh thuộc định
chế và bí tích nơi giáo lý và lối sống « Công giáo* ».
Magistère
Quyền Giáo huấn
Thẩm quyền hợp cách – giáo hoàng và các giám mục – trong Giáo hội, có
chức năng đưa ra một cách chính thức và trung thực giáo lý chân chính
Kitô-giáo, thiết định với đầy đủ năng quyền ý nghĩa tín lý khi thấy cần phải
làm, có bổn phận loại bỏ mọi lệch lạc hoặc hiểu sai (xem chữ «Hérésie *»).
Médiation
Sự trung gian
Chức năng của một người có năng cách để nối liền mối quan hệ giữa hai
phía hoặc toàn thể những thành phần khác nhau ; không có người ấy thì
những phần tử khác nhau sẽ không cách gì gặp gỡ và liên kết với nhau được. Điều
kiện thiết yếu để một việc làm trung gian thành công hẳn nhiên là người làm
trung gian phải thực sự « được đôi bên
chấp nhận », đồng thời không bị giản lược vào một trong các phần tử
ấy.
Messie
Thiên Sai
Là Đấng được Thiên Chúa gửi đến để thi hành công cuộc cứu độ mà Israel*
trông chờ nơi Ngài. Các quan niệm về thiên sai giải phóng thay đổi qua các thế kỷ
và tùy hoàn cảnh, nhưng chân dung Đấng Thiên Sai, kẻ được xức dầu (trong tiếng
Do-Thái masiâh có nghĩa là « xức dầu »), thường mang những nét vương
giả. Khi áp dụng vào Đức Giêsu (trong bản văn Hy-Lạp chữ « Kitô = Đấng
được xức dầu » luôn nối liền với tên
Ngài trong chữ đôi Giêsu-Kitô), tước hiệu Thiên Sai lại mang một ý nghĩa đổi
mới một cách sâu xa (xem bản văn trong sách nầy, mục « Giêsu » và
« Kitô » tr. 33...).
Mystère
Mầu nhiệm
Thực thể sâu kín đến độ không những tuyệt đối vượt lên tất cả những gì
con người có thể quan niệm, mà còn vượt
lên tất cả những gì nó có thể ao ước hoặc hy vọng. Trong ngôn ngữ
Kitô-giáo, chữ nầy liên kết với chính thực thể của Thiên Chúa và với tất cả
những việc gia ơn (xem chữ grâce*) của
Ngài trong Đức Giêsu-Kitô và do Chúa Thánh Thần*, nên không những nó cao cả khi
còn « che giấu », mà còn hơn
thế nữa khi được mạc khải* (Cl 1,26 ; Ep 3,9).
Mythe
Huyền thoại
Chữ nầy thường được hiểu theo nghĩa tiêu cực để nói đến những thực thể
huyền hoặc và giả tưởng đôi khi còn được hiểu là láo khoét. Kỳ thực, ngôn ngữ
huyền thoại giúp diễn tả những điều kỳ bí* mà tư duy lý trí và ngôn ngữ luậân
lý không thể nào chuyển đạt.
Nature
Bản tính, bản chất
Đối lại vơiù chữ « ngôi vị* », chữ nầy nói đến cái gì là một
hữu thể, chứ không nói đến ai là hữu thể ấy ; nó nhằm đến các đặc tính,
phẩm chất và năng lực tiêu biểu cho một « lối » hiện hữu, chứ không
phải là chủ thể tác động các điều ấy. Nên những thành ngữ « nature divine
= thiên tính » và «nature humaine = nhân tính » lại nói đến một số
những đặc tính, những nét cá biệt và chức năng riêng mà người ta gọi là
« Thiên Chúa » và « người » ; những điều đó không nói
ai là « kẻ » tác động chúng.
Trong trường hợp của Đức KITÔ, các đặc tính, nét cá biệt và chức năng của nhân tính của
Ngài được ngôi vị Thiên Chúa của Ngài đảm trách vì Ngài không phải là Ngôi vị
con người (= personne humaine) : ngôi vị duy nhất nơi Ngài là chính ngôi
vị của Lời* Thiên Chúa (= Ngôi Lời), Con* Thiên Chúa. Trong trường hợp Thiên Chúa,
các đặc tính, nét cá biệt và chức năng của thiên tính được ba Ngôi Cha,
Con và Thánh Thần tác động (nhưng mỗi ngôi theo tước vị riêng của mình).
Pâque
Lễ vượt qua
Lễ Do-Thái rất xa xưa trở thành lễ quan trọng nhất từ khi nó được cử
hành để tưởng niệm biến cố thành lập toàn lịch sử Israel* : Israel được
giải phóng hoặc « cuộc vượt qua » từ xứ Ai Cập xuyên qua Biển Đỏ.
Người Kitô-hữu nói đến « lễ vượt qua của Đức Giêsu » là nói đến
sự vượt qua cõi chết của Ngài đến sự sống (nghĩa là Sự Sống Lại*) và thiết lập
một dân mới được giải thoát khỏi nô thuộc và được kêu mời để đi vào « Đất
hứa ». Lễ Phục Sinh (Pâques) Kitô-giáo mừng sự sống lại của Đức Giêsu.
Paraclet
Đấng Nâng Đỡ
Thánh Thần* là Đấng « bênh vực, luật sư », Đấng bảo vệ và nơi
nương tựa cho người tin.
Parole
de Dieu
Lời Chúa (Xem chữ Verbe*, và chữ Prophète*)
Parousie
Quang lâm, Đức Kitô đến lại trong thời cánh chung (Xem chữ Fils de l’homme*)
Passion
Khổ nạn
Con đường trung tín và khổ đau mà Đức Giêsu đã trải qua từ lúc Ngài bị
chận bắt cho đến cái chết của Ngài trên Thánh giá. Khổ nạn nầy được mỗi một tác
giả trong bốn vị viết phúc âm ghi lại; khi cộng thêm vào phần Sống Lại*, toàn
bộ tạo nên Mầu Nhiệm* phục sinh hoặc Lễ Vượt qua* của Đức Giêsu, là mạc khải
cao cả nhất về tình yêu Thiên Chúa và nguồn cứu độ cho con người.
Péché
Tội lỗi (Xem bản văn, mục
« Ơn tha thứ trong ân huệ » tr. 91-92)
Pères
de l’Eglise
Các Giáo Phụ
Là những người tin và làm chứng (thường là các giám mục) vào những thế kỷ đầu của Giáo
hội ; «họ thực thi sự hiệp nhất và thông công của đức tin trong hoàn cảnh
địa phương và thời đại của họ, và được người ta nhìn nhận là những bậc thầy»
(Vincent de Lérins). Xem chữ Tradition*.
Personne
Ngôi vị
Đối lại với chữ thiên nhiên (= nature*), trong trường hợp con người,
ngôi vị nhằm chỉ một chủ thể tự do và trách nhiệm « điều hành » tất
cả những gì thuộc bản tính mình: tất cả những điều nó làm và những gì thuộc hữu
thể của nó (= là nó). Việc áp dụng chữ nầy vào Thiên Chúa (chẳng hạn nói
« Ngôi Cha ») đòi hỏi phải loại ra tất cả những hình thức biểu tượng
quá trực tiếp liên quan đến tâm lý (hoặc tâm-lý-hóa).
Pharisiens
Các người Pharisêu, người Biệt Phái Trào lưu Do-Thái chuyên lo học hỏi
Lề Luật Do-Thái và rất để ý đến việc
thực thi Lề Luật. Đức Giêsu đã trách mắng người Pharisêu về tính tẳn mẳn, hoặc
giả hình trong lối sống của họ ; họ không chấp nhận sứ điệp của Ngài, sứ
điệp kêu mời họ hoán cải tâm hồn, vượt lên trên việc tuân giữ những phép tắc
nghiêm nhặt.
Prophète
Tiên tri
Người nói nhân danh Thiên Chúa, mang Lời Thiên Chúa và rao truyền. Tước
hiệu nầy là một trong những tước hiệu đầu tiên mà những người lắng nghe Đức
Giêsu và môn đệ Ngài áp dụng cho Ngài.
Protestants
Những người Tin Lành (Xem chữ
Luther*).
Puissance
Quyền năng
Cũng như chữ « vinh quang » (= gloire) chẳng hạn, chữ nầy
trong Kinh Thánh nhằm chỉ vị thế tối thượng và chúa tể (chủ tế)* (= Seignerie*)
của Thiên Chúa, tỏa lan trên mọi vật trong mọi thời đại và khắp vũ trụ. Đừng
nên hiểu những từ ngữ nầy theo nghĩa thuần chính trị như là « thống
trị » hoặc trần tục như « phô trương ». Theo Kinh Thánh, và hơn hết là trong Đức Giêsu-Kitô,
nơi cái chết và sự Sống lại của Ngài, Thiên Chúa dùng vinh quang và quyền năng
của Ngài để phục vụ sự cứu độ Dân Ngài. Và đó là phương cách Ngài thiết lập
Vương quyền và Vương Quốc của Ngài.
Rédemption
Cứu chuộc
Từ ngữ nầy (nguyên tự là « chuộc lại ») được dùng và hay được
dùng hơn nhiều chữ khác tương tự (giải thoát, thần hóa, đem lại công chính, làm
hòa lại ....) nhằm chỉ công cuộc cứu độ* mà Thiên Chúa thực hiện cho con người
trong Đức Giêsu-Kitô, và đến với mọi người qua nhiều thời đại nhờ Thánh Thần*
của Ngài. Chữ nầy lúc khởi nguyên có nghĩa là kéo người Do-Thái ra khỏi thân
phận nô lệ trong thời Xuất Hành* (Xh 13,17 ; 15,20). Nó không có nghĩa là
Thiên Chúa phải trả một món tiền chuộc cho bất cứ ai (như cho ma quỉ) ;
cũng nên nhấn mạnh rằng, trong hành động cứu giúp con người, Thiên Chúa đã chỉ
cho mà không tìm lợi chi cho Ngài (xem bản văn, mục « Ơn tha thứ trong Ân
huệ » tr. 91-92).
Règne
Vương quyền, sự trị vì, triều đại (Xem chữ Puissance*)
Résurrection
Phục sinh, Sống lại
Đi qua cõi chết, bước qua, vượt qua một cái chết thật, đến một sự
sống « không hề chết »: sự sống đời đời, sự sống thật, đó là sự
thông dự vào chính sự sống của Thiên Chúa. (Xem chữ Grâce*).
Révélation
Mạc khải (Xem chữ Verbe*)
Royaume
Vương quốc, Nước (Xem chữ Puissance*)
Sacrement
Bí tích
Một cử chỉ đi kèm một lời nói đầy lòng tin, tác động một cách thiêng
liêng nhưng thiết thực bên trong con người (nơi tâm hồn) điều mà nó biểu thị,
tượng trưng trong trật tự hữu hình xem thấy được. (Xem chữ Baptême*, phép rửa,
bí tích khai nguyên của Giáo Hội*).
Sacrifice
Hy lễ, lễ hy sinh
Lễ nghi dâng tiến, một « lời cầu nguyện
bằng hành vi ». Hy tế diễn tả sự dâng hiến mà người dâng muốn dâng chính
mình cho Thiên Chúa, nên nó chỉ có giá trị nơi nỗ lực yêu thương bên trong;
không lý đến tấm lòng yêu thương nầy thì mọi việc chỉ là hư vô giả ảo và khắc
kỷ cầu lợi, đôi khi còn là việc hủy hoại thân xác một cách độc hại.
Salut
Sự cứu độ, phần rỗi
Tình trạng của kẻ được cứu; theo đức tin Kitô-giáo,
nó có nghĩa là: được tha thứ các tội của mình và giải thoát khỏi những nổi khắc
khoải, được hứùa ban (và đã được thấm nhập bởi) một sự sống có khả năng vượt
thắng mọi đe dọa hoặc xiềng xích trói buộc, kể cả sự chết ; nghĩa là sự
sống của chính Thiên Chúa chuyển đến cho
mình nhờ ơn huệ* của Đấng Cứu Độ Giêsu-Kitô, trong Thánh Thần*.
Sang
Máu
Theo Kinh Thánh, máu là dấu chỉ của sự sống; máu
đổ ra là dấu chỉ và là thực thể của sự sống dâng cho, trao gữi, thông ban.
Seigneur
Chúa
Chữ nầy là tên Thiên Chúa trong Cựu Ước :
Yahwé, dịch ra tiếng Hy Lạp là Kurios. Khi áp dụng vào Đức Giêsu, thì nó nêu
lên cho biết Ngài thuộc vào Mầu Nhiệm Thiên Chúa: vượt lên trên sự chết-sống
lại, Ngài thực thi quyền năng* và sự trị vì của Thiên Chúa, tham dự sự sống và
vinh quang của Thiên Chúa.
Serviteur
Tôi tớ
Nhân vật kỳ bí đặc biệt được nêu lên trong
« các bài thơ » hoặc các « bài ca » của Tôi-tớ trong
Isaia (rải ra trong các chương 42 đến 52 sách nầy). (Có lẽ chính Đức Giêsu đã
áp dụng chữ nầy cho Ngài), chữ nầy diễn tả Khổ nạn*, sự chết và, rộng hơn, đó
là toàn bộ cuộc đời Ngài, như con đường đau khổ và hy sinh*, nhờ đó mà Thiên
Chúa mở các cánh cửa thứ tha và cứu chuộc*, sự cứu độ* và sự sống cho
« muôn người » (xem Is 53,12).
Suivre
/ suite de Jésus
Đi theo, bước theo Đức Giêsu
Động từ thường gặp trong các bản Phúc Aâm nhằm nói đến việc bước theo
Đức Giêsu, theo sau Ngài (« dõi bước »), và gợi lên quyết định
« liên hệ » là thực sự làm môn đệ*
của Ngài.
Susciter/
Suscitation
Dấy lên / Hưng phấn, Hứng khởi
Theo nguyên tự thì động từ nầy có nghĩa là: làm dậy men, làm phát sinh,
làm xuất hiện...Từ ý nghĩa nguyên khởi nầy người ta hiểu được các chữ như
« sống lại, phục sinh = ressusciter ; résurrection... ». Nhưng
người ta cũng dùng các chữ nầy và các hình ảnh mà chúng gợi ra để nói đến những
gì linh hoạt, tạo sức sống, gây hứng khởi...cho chính đời sống con người ( xem
bản văn, mục « Giêsu-Kitô Chúa chúng ta » tr. 75-76)
Tâche
Việc phải làm, phận vụ
Đối lại với ân sủng, ân huệ, chữ nầy nói đến trách nhiệm riêng dành cho
con người : Cần có sự hợp tác hoặc tham gia của cá nhân ( con người) để
cuộc sống được hoàn thành ; nghĩa là cần có sự hợp tác của chính mình để
ơn* cứu độ* có thể nâng đở, linh hoạt và hướng dẫn .
Théologie
Thần học
Nỗ lực nghiên cứu và suy tư để đạt đến một sự hiểu biết đầy đủ hơn và
một lối trình bày khả tín hơn về đức tin*, được Lời* Thiên Chúa chứng thực* và
được Giáo Hội truyền đạt lại (Xem chữ Tradition* và Magistètre*).
Thomas
d’Aquin
Tôma Aquinô
Thần học gia thời danh thế kỷ XIII ; tư tưởng thần học của ngài được Giáo Hội Tây Phương
xem là mẫu mực. Và vẫn còn được xem như thế, mặc dầu có nhiều thích ứng và cải
biến trước những chuyển biến văn hóa của xã hội kể từ Thời Trung Cổ.
Tradition
Truyền thống
Truyền đạt. Chữ nầy vừa nói đến đối vật được
truyền trao vừa là hành động truyền đạt. Truyền thống Kitô-giáo là sự truyền
đạt trung thực đạo lý (= la doctrine) Kitô-giáo qua các thế kỷ( Xem các chữ
Conciles*, Pères de l’Eglises*) và truyền đạt chính sự sống của Đức Kitô ( Xem
1 Cr 11,23).
Trinité
Ba Ngôi
Từ ngữ trừu tượng (không phải Kinh Thánh) nhằm
chỉ chính Thực Thể của Ba Ngôi* Thiên Chúa – Cha, Con và Thánh Thần -, trong
cách thế Ba Ngôi ở trong Sự Hiệp Nhất (hiệp nhất của một bản tính* Thiên Chúa
duy nhất) chỉ một Thiên Chúa duy nhất hằng sống và chân thật.
Union hypostatique
Kết hợp hai bản tính nơi Đức Giêsu-Kitô
Trong Đức Giêsu-Kitô, sự kết hợp hai bản tính* - thiên tính và nhân
tính - trong và thể theo Ngôi* ( = personne, hypostase) Lời*- Con Thiên Chúa*.
Vì được thấm nhập và linh hoạt bởi thực thể Ngôi vị của Lời-Con Thiên Chúa mà
nhân tính của Đức Giêsu có được thực thể ngôi vị riêng của mình, nghĩa là thực
sự được cấu thành và có thể sinh hoạt như ngôi vị.
Verbe
Lời, Ngôi Lời, Lời Thiên Chúa
Tiếng Hy-Lạp là Logos ; tiếng Pháp dịch là Parole de Dieu = Lời
Thiên Chúa. Tước hiệu áp dụng cho Đức Giêsu-Kitô để chỉ cho biết Ngài là Con* -
Hình ảnh* Chúa Cha, Đấng nhập thể* trong một cuộc sống làm người, đã mạc khải
Thiên Chúa cho con người bằng lời nói, hành động và cả cuộc đời của Ngài ( Xem
Gioan 1,1...). Ngài đến không phải chỉ như một vị tiên tri* lên tiếng nhân danh
Thiên Chúa, nhưng là thực thể và là chính hành động (événement même) của Lời Thiên Chúa trong
lịch sử, là Lời Thiên Chúa « tự mình lên tiếng nói » với con người, ở
giữa những con người.
Thư
mục
J. Doré Articles « Jésus-Christ » (p.847-858), « Incarnations » (766-769), « Descente aux enfers » (390-394), « Résurrection de Jésus » (1442-1448), « Salut-Rédemption » (1514-1523), « Trinité »
(1727-1734), in P. Poupard (éd.), Dictionnaire des religions PUF, 1984.
J.Doré et al. Jésus, le Christ et leschrétiens Coll. Jésus et
Jésus-Christ, Annexe N- 2 Desclée, 1981.
J.N. Bezançon Le Christ de
Dieu
Desclée de Brouwer, 1986.
B. Rey
Jésus-Christ, chemin de notre foi
Cerf, 1981.
C. Perrot Jésus et
l’histoire
Coll. Jésus et Jésus-Christ, N-
11, Desclée, 1980
B. Sesboüé
Jésus-Christ dans la tradition de l’Eglise,
coll. Jésus et Jésus-Christ, N- 17,
Desclée, 1983.
MỤC
LỤC
I. Giêsu ?
tr. 9
II. Giêsu
khởi từ Giêsu tr. 15
Từ thủa ban đầu tr. 15
Qua
các thế kỷ tr. 21
III. Giêsu hay là Giêsu-Kitô ? tr.29
Thắc
mắc về Đức Giêsu
và « tầm quan trọng của vấn
đề » tr.29
Giêsu
là ai ?
tr.33
Tại
sao lại có những Kitô-hữu ?
tr.42
Ngài
được phục sinh tr.53
Còn bạn, bạn nghĩ thế nào ? tr.57
IV. Đức
Giêsu-Kitô Chúa chúng ta tr.61
Thiên
Chúa của Đức Giêsu-Kitô
tr.63
Mầu
nhiệm Đức Giêsu-Kitô
tr.66
Sự
cứu độ từ Đức Giêsu-Kitô tr.70
Từ
vựng tr.79
Thư mục tr.101
[1] Donner le Bon Dieu
[2] Donner la communion, donner le corps du Christ
[3] * « affaire »
những chữ đặc biệt được tác giả đánh dấu (*) được giải thích trong bản từ vựng ở phần phụ lục.
[4] Le scandale de la mort de Jésus
[5] L’identité ... divine
[6] Le Seigneur
[7] Le Fils Unique de Dieu
[8] L’Image de Dieu
[9] Le Verbe
[10] « Sauveur...universel »
[11] Les hérésies
[12] Symbole de Nicée-Constantinople
= kinh tin kính
[13] Sphère de Dieu
[14] Il fait partie de la réalité
même de Dieu
[15] Dieu n’est plus « Dieu » sans lui
[16] La « définition »
[17] Âme raisonnable
[18] Sans confusion ni changement, sans division ni séparation
[19] Personne
[20] Hypostase
[21] Sphère d’être
[22] Appartenances
[23] En tout et pour tout
[24] L’union hypostatique
[25] « Le Messie »
[26] Baptiste
[27] « L’être chrétien »
[28] Se définissent par rapport à lui
[29] un salut
[30] Dieu
[31] Grâce
[32] Comme le Dieu des hommes
[33] Médiation
[35] Suscitation
[36] à notre portée
[37] Se communiquer à nous : hiệp thông, liên lạc, nối kết
[38] Purement et simplement
[39] Distintes
[40] Dynamisme
[42] Dans son propre mouvement et son propre dynamisme d’existence
filiale
[45] Humainement
[46] De ce qu’il « est »
[47] Le pardon dans la Grâce
[48] Il le (le pardon) révèle
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét